Quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược Cách mạng Việt Nam giai đoạn 1938-1939 của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ và những giá trị lịch sử
Tổng Bí
thư Nguyễn Văn Cừ sinh ngày 9-7-1912 trong một gia đình nhà nho nghèo yêu nước ở
vùng quê giàu truyền thống văn hóa và cách mạng thuộc làng Phù Khê, xã Phù Khê,
thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Tham gia cách mạng từ năm 16 tuổi, năm 17 tuổi được
kết nạp vào Đông Dương Cộng sản Đảng, đồng chí trở thành nhà cách mạng tài ba, mẫu
mực của Đảng. Tháng 3 - 1938, đồng chí được bầu làm Tổng
Bí thư khi chưa tròn 26 tuổi. Trở
thành Tổng Bí thư cũng là thời điểm cách mạng Việt Nam đứng trước nhiều chuyển
biến của bối cảnh quốc tế, đòi hỏi Đảng Cộng Sản Dông Dương và người đứng đầu của
Đảng phải đưa ra những quyết sách mới, những phương thức hoạt động mới.
1. Quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
cách mạng Việt Nam thời kỳ 1938 -1939
Nếu khoảng
thời gian từ năm 1936 đến năm 1939 là giai đoạn đặc biệt của lịch sử cận đại Việt
Nam, đã diễn ra cuộc vận động vô cùng rộng lớn, mạnh mẽ vì quyền dân sinh, dân
chủ với sự tham gia của hàng triệu quần chúng nhân dân. Thì khoảng thời gian từ
1938 đến 1939 là bước phát triển đột biến của phong trào cách mạng Việt Nam, cũng
là bước chuyển quan trọng cho giai đoạn cách mạng tiếp theo dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Đông Dương mà ở đó có sự đóng góp to lớn của cá nhân đồng chí
Nguyễn Văn Cừ.
Cao trào cách
mạng đòi dân sinh, dân chủ khép lại cùng với những nhận định sâu sắc, chính xác
của đồng chí Nguyễn Văn Cừ. Ngay từ tháng 8-1938, đồng chí đã phân tích, dự báo
về tình hình thế giới: “Cuộc chiến tranh
đế quốc chủ nghĩa sắp tới sẽ là cuộc chiến tranh do các nước phát xít tiến hành
chống nhà nước dân chủ để phân chia lại thị trường thế giới. Đó sẽ là đồng thời
một cuộc chiến tranh chống cách mạng, chống Liên Xô - Tổ quốc của chủ nghĩa xã
hội”.
Thực tế lịch sử đã diễn ra như vậy. Những phân tích nhạy bén, dự báo chính xác
diễn biến của thời cuộc của đồng chí Nguyễn Văn Cừ là cơ sở bước đầu giúp Đảng dần
chuyển hướng cách mạng, kịp thời kêu gọi nhân dân bình tĩnh, thống nhất hành động,
chuẩn bị cho các cơ sở của Đảng rút vào hoạt động bí mật, sẵn sàng đối phó với
mọi tình huống.
Ngày 1-9-1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Tám
ngày sau, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã chủ trì cuộc họp của Xứ ủy Bắc Kỳ đề ra
chủ trương và các biện pháp bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ, chuẩn bị những cơ sở vững
chắc, chủ yếu là ở vùng nông thôn, miền núi làm nơi đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
củng cố lực lượng lâu dài. Tuy nhiên, dưới chính sách phản động của Chính phủ
phái hữu, ở Pháp, ngày 25-9-1939, Tổng thống Pháp đã ký sắc lệnh giải tán Đảng
Cộng sản, bắt bớ những người cộng sản. Ở Đông Dương, ba ngày sau, ngày
28-9-1939, Chính quyền Thuộc địa ra nghị định cấm mọi hoạt động Cộng sản và giải
tán tất cả các tổ chức có liên hệ với Đảng Cộng sản Đông Dương. Đặt Đảng Cộng sản
Đông Dương ra khỏi vòng pháp luật. Không khí khủng bố bao trùm khắp cả nước.
Gây cho Đảng những tổn thất nặng nề. Trước sự diễn biến mau lẹ của thời cuộc, cũng như để kịp thời ứng phó với
tình hình cách mạng trong nước, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ và đồng chí Lê Duẩn
cùng một số cán bộ khác đã bí mật vào Nam chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương lần
thứ 6. Từ ngày 6 đến ngày 8-11-1939, tại Bà Điểm, Hóc Môn, Gia Định dưới sự chủ
trì của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, Ban Trung ương Đảng đã tiến hành hội nghị thảo
luận và quyết định các vấn đề quan trọng của cách mạng do Đồng chí Nguyễn Văn Cừ
và đồng chí Lê Duẩn soạn thảo
Hội nghị Trung ương 6 với những quyết nghị những điểm mấu
chốt nêu trên, đánh dấu sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng Việt Nam đầy
bản lĩnh và sáng suốt của Đảng Cộng sản Đông Dương dưới sự chủ trì của Tổng Bí
Thư Nguyễn Văn Cừ. Nó phù hợp với những yêu cầu khách quan và bức thiết của
cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Những quan điểm này cũng chính là cơ sở quan trọng
cho các Hội nghị Trung ương 7 (11-1940), Hội nghị Trung ương 8 (5-1941) kế thừa,
bổ sung và hoàn chỉnh đường lối chiến lược mới của cách mạng Việt Nam. Đưa đến
sự thắng lợi lịch sử của Tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám năm 1945.
2. Những giá trị lịch sử
Lịch sử
ngày càng lùi sâu vào quá khứ, nhưng giá trị của nó để lại cho hậu thế là vô
cùng to lớn. Quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng tại Hội nghị
Trung ương 6 (khóa I) của Đảng Cộng sản Đông Dương do đồng chí Nguyễn Văn Cừ đứng
đầu đã đi vào lịch sử cách mạng Việt Nam với nhiều giá trị và kinh nghiệm lịch
sử lớn lao cho lớp lớp thế hệ cách mạng mai sau.
Trước hết, quyết định đó đã khẳng định tính đúng đắn sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản với
những luận điểm vận dung sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin để đấu tranh giải phóng
dân tộc mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã dày công tìm kiếm, nghiên cứu. Mặc dù, trong cuộc đời hoạt động cách mạng của
mình, đồng chí chưa một lần may mắn được gặp gỡ lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc để hội
kiến Người về những vấn đề của cách mạng Việt Nam. Nhưng thông qua Hội Việt Nam
Cách mạng thanh niên, qua tài liệu sách báo được Người truyền bá về trong nước,
đã có sự gặp gỡ chung giữa tư duy mẫn tiệp Nguyễn Văn Cừ và tư tưởng Nguyễn Ái
Quốc. Có thể thấy những luận điểm được phân tích trong Nghị quyết Trung ương 6
về đường lối chiến lược, mục tiêu, động lực, phương pháp cách mạng, cho đến mối
quan hệ giữa dân tộc với giai cấp, giữa vấn đề xây dựng lực lượng cách mạng quần
chúng và vấn đề xây dựng Đảng, giữa cách mạng dân tộc và cách mạng thế giới… là
sự thống nhất về tư duy, tiếp nhận và áp dụng một cách nghiêm túc, linh hoạt, sáng
tạo những vấn đề cách mạng Việt Nam trong bối cảnh mới mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
đã nêu lên tại Hội nghị hợp nhất
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự gặp gỡ này đã khẳng định sự đúng đắn về đường
lối cách mạng Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc mà cả một thời kỳ dài Người bị Quốc tế
Cộng sản và thậm chí đồng chí của mình hiểu sai, phê phán khi cho rằng quan điểm
đó mang nặng những tàn tích chủ nghĩa quốc gia và chủ nghĩa sô vanh. Sự gặp gỡ
đó cũng là cơ sở để sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, khi trở về tổ quốc
ngày 28-1-1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội
nghị Trung ương lần thứ 8 (5-1941) trong một điều kiện hết sức thuận lợi, nhận
được sự ủng hộ lớn lao của cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân. Để rồi trên
cơ sở đó, Hội nghị tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh “Chính sách mới của Đảng” được
nêu ra tại Hội nghị Trung ương 6, khẳng định dứt khoát chủ trương “thay đổi chiến
lược” đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
Như vậy,
sự chỉ đạo chuyển hướng cách mạng của Hội nghị Trung ương lần thứ 6 không những
thể hiện sự kịp thời sáng suốt về tư duy của Thường vụ Trung ương Đảng, đứng đầu
là Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ mà còn khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là
dòng chảy liên tục trong tiến trình cách mạng thời kỳ cận hiện đại, cả những
thời điểm không có Hồ Chí Minh. Nó còn là sự thể hiện rõ tính đúng đắn,
tính khoa học mang tính thời đại của chủ nghĩa Mác - Lênin, của con đường cách
mạng vô sản mà Bác hồ lựa chọn.
Thứ hai, quyết định đó đã mở ra giai đoạn lịch
sử mới cho cách mạng Việt Nam, giai đoạn trực tiếp chuẩn bị lực lượng về mọi mặt
để tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng về tay nhân dân. Chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, mở ra cơ
hội cho dân tộc Việt Nam đứng lên tiến hành giải phóng dân tộc. Hội nghị Trung
ương 6 (11-1939) dưới sự chủ trì của Đồng chí Nguyễn Văn Cừ diễn ra với những
quyết định đúng đắn trong thay đổi chiến lược cách mạng là cơ sở, dấu mốc quan
trọng đánh dấu cách mạng Việt Nam bước sang giai đoạn mới, giai đoạn đấu tranh
giải phóng dân tộc, khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân (1939-1945). Ngày
nay, khi nhắc đến lịch sử Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là nhắc đến nghệ thuật
lãnh đạo cách mạng tài tình của Đảng Cộng sản Đông Dương, nghệ thuật “Tạo lực,
lập thế và tranh thời”. Nó được bắt đầu khởi thủy từ khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
quyết định lựa chọn con đường giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản,
đưa đến sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930. Và được trực tiếp bắt đầu từ
khi diễn ra Hội nghị Trung ương 6 (11-1939) với sự đóng góp to lớn của Tổng Bí
thư Nguyễn Văn Cừ trong quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng.
Chiến lược đó đã được chính lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp bổ sung, hoàn thiện
tại Hội nghị Trung ương 8 (5-1941). Trên cơ sở đó, sau khi kết thúc Hội nghị
Trung ương 8, Đảng đã lãnh đạo nhân dân gấp rút chuẩn bị lực lượng trên mọi
lĩnh vực về xây dựng căn cứ địa cách mạng ở Bắc Sơn - Vũ Nhai, ở Cao Bằng - Bắc
Cạn - Lạng Sơn; xây dựng lực lượng chính trị với việc thành lập Mặt trận Việt
Minh (5-1941); xây dựng lực lượng vũ trang với việc thành lập Đội Việt Nam
Tuyên Truyền Giải phóng quân (22-12-1944); xây dựng lực lượng đấu tranh trên mặt
trận hóa với bản Đề Cương Văn hóa năm 1943 ra đời, thu hút đông đảo tầng lớp
văn nghệ sĩ tham gia “dùng ngòi bút làm đòn xoay chế độ”… một không khí cách mạng
sục sôi khắp cả nước. Và khi thời cơ cách mạng chín muồi, Nhật đầu hàng Đồng
Minh vô điều kiện (13-8-1945), Đảng đã lãnh đạo quần chúng nhân dân tiến hành tổng
khởi nghĩa giành chính quyền, kết thúc cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc,
khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ngày 2-9-1945.
Một quyết
định lịch sử, đôi khi chỉ đúng trong một thời điểm nhất định, nhưng có những
quyết định lịch sử đã đưa đến sự thay đổi cả một giai đoạn, một thời kỳ lịch sử
của dân tộc. Quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược dưới sự chủ trì của Tổng
Bí thư Nguyễn Văn Cừ tại Hội nghị Trung ương 6 là một quyết định như thế. Nó mở
ra một giai đoạn cách mạng mới của lịch sử đấu tranh cách mạng Việt Nam. Giai
đoạn đấu tranh giành độc lập dân tộc. Hơn thế nữa, sự đúng đắn, phù hợp của nó
đã đưa đến sự thắng lợi của cách mạng, mở ra kỷ nguyên mới cho cách mạng Việt
Nam. Kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Việt Nam từ một
nước thuộc địa trở thành một nước độc lập. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ,
đứng lên làm chủ đất nước.
Thứ ba, quyết định đó đã
góp phần làm phong phú, sâu sắc thêm kho tàng lý luận cách mạng của Đảng. Điều
này có thể thấy rõ ở những điểm chính sau đây:
Một là, trong quá trình hoạch định chủ
trương, đường lối phải xem trọng yếu tố thực tiễn. Chúng ta có thể khẳng định rằng sự ra đời của
Nghị quyết Trung ương tháng 11 năm 1939, trước hết, bản thân nó phải xuất phát
từ đòi hỏi của tình hình cách mạng Việt Nam lúc đó. Những vấn đề lớn về: “Tình hình thế giời”, “Tình hình Đông
Dương”, “Chính sách của Đảng Cộng sản Đông Dương” trong Nghị quyết Trung
ương 6 được dựa trên cơ sở phân tích một cách khoa học, thấu đáo thông qua những
vấn đề lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn lịch sử của Việt Nam. Thông
qua đó, chúng ta thấy được sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Đến
lượt nó, thực tiễn khách
quan cách mạng Việt Nam đã khẳng định sự đúng đắn của việc vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin về cách mạng giải phóng
dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi
trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Hai là, phải luôn luôn tích cực, chủ động nắm
bắt đúng xu hướng quốc tế để từ đó đề ra chủ trương đường lối, chớp thời cơ
cách mạng. Đóng góp
to lớn của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ là trong thời khắc lịch sử quan trọng, nhận
diện đúng xu thế thời cuộc của chiến tranh thế giới thứ hai để lãnh đạo chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược cho cách mạng Việt Nam. Để thấy rõ vai trò của vấn đề này
cần phải hiểu rõ thái độ và thế ứng xử của các nhóm tri thức yêu nước ở Hà Nội
trong thời kỳ Thế chiến thứ II. Khi bùng nổ chiến tranh có không ít chính đảng
và phong trào đã phân tích và dự đoán sai về xu thế diễn biến của thời cuộc. Có
những người còn tin vào sự phục hưng của nước Pháp. Có một số nhóm người tin
vào sức mạnh và thắng lợi phe Trục, vào sứ mệnh của người Nhật. Có nhóm lại muốn
dựa vào thế lực quân phiệt Trung Hoa. Trong
bối cảnh đó Đảng Cộng sản Đông Dương, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã
sớm có những phân tích khoa học, rất vững tin vào thắng lợi cuối cùng của lực
lượng tiến bộ chống phát xít, vào thắng lợi của phe Đồng Minh và vào tiền đồ của
cách mạng Việt Nam sẽ tiến tới bước đường giải phóng dân tộc.
Như vậy,
việc theo dõi, đánh giá diễn biến và dự báo chiều hướng phát triển hình hình thế
giới và khu vực, những xu thế chủ yếu trong quan hệ quốc tế, những thay đổi
trong chính sách của các nước, nhất là các nước lớn đối với Việt Nam có ý quan
trọng. Nếu không dự báo đúng thời cuộc, không thấy được thời cơ thì hoặc là bất
ngờ hoặc là bỏ lỡ thời cơ.
Ba là, trong quá trình hoạch định chỉ đạo đường
lối, chủ trương của Đảng vai trò bản lĩnh, chính trị người đứng đầu là vô cùng
quan trọng, đồng thời phải khơi dậy niềm tin, khát vọng của dân tộc của đông đảo
quần chúng nhân dân, lực lượng tham gia cách mạng. Gần 2 năm trên cương vị Tổng Bí Thư của Đảng
(1938-1939), đồng chí đã thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng của người đứng đầu,
dẫn dắt phong trào cách mạng, tạo bước phát triển đột biến cho phong trào cách
mạng Việt Nam. Khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, cách mạng Việt Nam đứng
trước nhiều vấn đề mới về chỉ đạo chiến lược và sách lược. Quyết định chuyển hướng
chỉ đạo chiến lược cách mạng Việt Nam của đồng chí và ban lãnh đạo Đảng thời điểm
này, biểu lộ chói sáng bản lĩnh và trí tuệ của tấm gương chiến sĩ cách mạng tài
ba, khí phách bất khuất trước kẻ thù và tinh thần lạc quan cách mạng. Không dừng
lại ở đó, tinh thần, bản lĩnh chính trị đó được đồng chí truyền nhiệt huyết tới
đông đảo các đồng chí, quần chúng nhân dân thân yêu của mình lửa sục sôi cách mạng
với một niềm tin quyết chiến và chắc thắng. Lời kêu gọi non sông dưới đây đã tạo
nên một khí thế mới, hối thúc ý chí quyết tâm của cả dân tộc, đoàn kết đứng lên
lật đổ đế quốc, tranh lấy tự do, độc lập:
“Các
đồng chí!
Thời
cuộc hết sức nghiêm trọng, nhiệm vụ và lịch sử phó thác cho ta rất nặng nề. Là
những phần tử tiên tiến của giai cấp thợ thuyền và là những con cháu tinh anh
tận tuỵ với công cuộc giải phóng dân tộc, chúng ta phải giác ngộ rõ cái sứ mệnh
lớn lao ấy và đủ can đảm, đủ nghị lực, đủ sáng suốt để gánh vác nó.
Các
đồng chí hãy siết chặt hàng ngũ lại!
Muôn
nghìn người cố kết như một!
Tiến
lên thực hiện Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương!
Tiến
lên lật đổ ách đế quốc, tranh lấy độc lập, giải phóng, tự do, bình đẳng, hoà
bình, hạnh phúc!
Mặc dầu những trận sấm sét khủng bố của quân thù, mặc dầu
những cơn phong ba bão táp dữ dội, con tàu cộng sản vẫn vững vàng lướt sóng
ngoài khơi … có một ý chí quả quyết không hề lay chuyển được, con tàu của chúng
ta sẽ vượt qua muôn nghìn trùng sóng bạc, chiến thắng tất cả một cách oanh liệt
mà vào bến.
Tương
lai sẽ về chúng ta!
Thắng
lợi sẽ về tay chúng ta!”
Dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản
Đông Dương, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đã nổ ra và thành công một cách
ngoạn mục, không gì có thể ngăn cản nổi. Như một ánh sao băng trên bầu trời
cách mạng Việt Nam, ngắn ngủi nhưng chói sáng, đồng chí Nguyễn Văn Cừ để lại
cho Đảng và nhân dân ta một tấm gương rực rỡ về nhiều mặt.
3. Phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, bản lĩnh trong
quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng Việt Nam của Tổng Bí thư
Nguyễn Văn Cừ những năm 1938-1939 vào thực tiễn lãnh đạo đất nước hiện nay
Trên cơ sở
nghiên cứu về quyết định và những giá trị của quyết định chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược cách mạng Việt Nam giai đoạn 1938-1939 của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ,
nhằm tiếp tục thực hiện mục tiêu, khát vọng phát triển đất nước theo tinh thần
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, chúng ta cần phải phát
huy tinh thần chủ động, sáng tạo, bản lĩnh ấy của đồng chí vào thực tiễn lãnh
đạo đất nước hiện nay.
Trước hết, phải nhất quán trong nhận thức từ người
lãnh đạo tới mỗi cán bộ, đảng viên về tinh thần luôn đổi mới, sáng tạo, không
chấp nhận với những cái đã có, vốn được định hình từ lâu, trong hiện tại nảy
sinh những điểm không còn phù hợp, thậm chí trái ngược với những thay đổi từ bối
cảnh. Bởi rõ ràng, không gì
là bất biến, không gì là đúng mãi, ngay với cả đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Qua thời gian, bối cảnh thực tiễn trong nước
và quốc tế ngày càng thay đổi mạnh mẽ, nhiều vấn đề mới, phức tạp đã nảy sinh.
Và để giải quyết, khắc phục, không thể chỉ dùng những lý luận cũ, những luận điểm
đã có của hiện tại để giải quyết. Mà thích ứng với những thay đổi này, rất cần
những đổi mới, sáng tạo để theo kịp, trước hết là sự đổi mới, sáng tạo trong tư
duy, nhận thức của đội ngũ lãnh đạo, của mỗi cán bộ, đảng viên.
Thứ hai, quá trình đổi mới, sáng tạo mang nhiều
sự phức tạp, bởi vậy đòi hỏi một sự nghiên cứu, tổng kết thực tiễn khách quan,
khoa học, dựa trên những luận cứ vững chắc chứ không phải là sản phẩm chủ quan
của cá nhân. Thực tiễn
luôn biến đổi ngày càng mạnh mẽ, nhiều vấn đề về chủ trương, đường lối nếu chậm
thay đổi sẽ không theo kịp với những biến đổi này. Hàng loạt nội dung quan trọng
của đổi mới như: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; công nghiệp
hóa, hiện đại hóa; phát triển văn hóa; xây dựng con người; quản lý, phát triển
xã hội; bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; đường lối, chính sách đối ngoại, hội
nhập quốc tế; phát huy dân chủ, đổi mới hệ thống chính trị; xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xây dựng Đảng;… cần tiếp tục phải nghiên cứu, điều
chỉnh và hoàn chỉnh thích ứng với thực tiễn và Nghị quyết Đại hội Đảng. Quá
trình đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, nhà quản lý ở
các cấp, của mỗi cán bộ, đảng viên, sự tham gia sâu sắc của các nhà nghiên cứu,
nhà khoa học và mỗi người dân.
Thứ ba, trong quá trình lãnh đạo cách mạng
cũng như trong thực hiện đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, vai trò
của người đứng đầu là đặc biệt quan trọng, bởi vậy phải phát huy đầy đủ tinh thần
“dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm”. Vai
trò, trách nhiệm người đứng đầu trong mọi thời kỳ luôn là vấn đề quan trọng và
cần thiết. Bởi không ai khác, họ chính là người
dẫn lối, chỉ đường, định ra đường hướng, chiến lược phát triển của tổ chức. Trách nhiệm cá nhân của
người đứng đầu là rất lớn, có tác động mang tính quyết định sự thành, bại đối
với sự phát triển của tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị. Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm
2011) được Đại hội XI của Đảng thông qua khẳng định: “Đảng thống nhất lãnh đạo
công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ... tăng cường chế độ trách nhiệm cá
nhân, nhất là người đứng đầu”.
Đây là quan điểm, mang tính nguyên tắc thống nhất, xuyên suốt, bất di bất dịch
của Đảng trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng. Do đó, việc tạo ra hành
lang cơ chế pháp lý để phát huy vai trò, bản lĩnh người đứng đầu, dám nghĩ, dám
làm, dám chịu trách nhiệm cũng là một yêu cầu vô cùng cấp thiết đặt ra cho
chúng ta trong giai đoạn hiện nay.
Tác giả: Lê Văn Nam* - Nguyễn Thị Ngọc Diễn**