thành ủy từ sơn
 
Lịch sử Đảng bộ Từ Sơn (1926 - 2018)

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ TỪ SƠN

(Giai đoạn 1926-2018)

A. Sự ra đời của các tổ chức cách mạng và phong trào cách mạng ở Từ Sơn trong những năm 1926 - 1939

I. TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ, KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỪ SƠN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX

 Đến giữa thế kỷ XIX, chế độ phong kiến Việt Nam đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng, lợi dụng tình hình đó thực dân Pháp tiến hành xâm lược nước ta. Năm 1884, thực dân Pháp chiếm được tỉnh Bắc Ninh. Để nắm được quyền kiểm soát chặt chẽ đến tận các làng xã, thực dân Pháp đã đưa bọn tay sai vào hệ thống chức dịch làng xã, duy trì cách cai trị truyền thống với những hương ước và hủ tục phong kiến lạc hậu. Chúng còn đặt ra các điều khoản mới như phạt tù, phạt tiền đối với chính trị phạm, những người tham gia hội kín. Các phong trào “Âu hóa”, “Vui vẻ trẻ trung” mà chúng bày ra đã cuốn hút thanh niên vào các trò vui đó để quên đi vận mệnh dân tộc. Hơn nữa, chúng còn đầu độc dân ta bằng rượu cồn và thuốc phiện. Phố Từ Sơn có đến dăm bảy nhà hát cô đầu, sòng bạc nhộn nhịp, vừa đàn hát, vừa hầu rượu và tiêm thuốc phiện suốt đêm.

Để đào tạo được đội ngũ công chức, quan lại có tri thức Tây học, Pháp đã cải cách hệ thống giáo dục, bài trừ dần chữ Hán trong chương trình học. Những người tốt nghiệp trung học được cấp bằng tú tài và tốt nghiệp đại học được cấp bằng cử nhân. Ở Từ Sơn có trường hương học ở Phù Lưu, Đình Bảng. Riêng với các nhà nho mà chúng đã sử dụng trong bộ máy chính quyền Từ Sơn khi mới thiết lập như Đàm Liên, Nguyễn Thiện Kế… thì chúng buộc họ phải học trường hậu bị để đào tạo lại.

Sự bóc lột về vật chất mới thực sự làm cho nhân dân Từ Sơn phải lao đao, khốn khổ. Chúng đã cướp ruộng đất trắng trợn của nhân dân, đồng thời bóc lột bằng sưu cao, thuế nặng. Đối với người nông dân, sưu thuế trở thành nỗi kinh hoàng. Đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp đã đưa ra mức thuế mới, theo đó đất nông nghiệp được chia ra hai loại: đất cấy lúa (đóng theo ba mức: 0,8 đồng; 1,1 đồng; 1,5 đồng/mẫu/năm); đất trồng trọt và đất ở chia ra rất nhiều mức khác nhau từ 0,1-2 đồng/mẫu/năm. Ngoài thuế ruộng đất, nông dân còn phải nộp thêm nhiều thứ thuế vô lý: thuế muối, thuế đò, thuế chợ, thuế đinh… Năm 1908, mỗi suất đinh phải nộp 4 đồng.

Sưu cao, thuế nặng cộng với thiên tai, mất mùa đã đẩy nhân dân Từ Sơn vào cảnh khốn khổ. Nạn lụt năm 1913, 1915, 1937 và những đợt hạn hán tiếp theo đã khiến cho mùa màng không được thu hoạch. Năm 1940, phát xít Nhật chiếm Đông Dương, chúng bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay và ra sức thu mua thóc gạo. Hậu quả nghiêm trọng nhất là nạn đói năm Ất Dậu (1945) làm hơn 2 triệu người ở bắc Bộ chết đói. Sự bóc lột của bọn địa chủ và thực dân đã dẫn đến mâu thuẫn gay gắt giữa nông dân với giai cấp địa chủ, và giữa dân tộc ta với bọn thực dân xâm lược. Nhiều người nông dân phải bỏ làng xóm đi làm ở các nhà máy, đồn điền. Họ bị đối xử tàn tệ và tiền lương lại rẻ mạt, mâu thuẫn giữa họ với bọn chủ tư bản càng gay gắt.

Để tiến hành khai thác thuộc địa, từ đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp đã xây dựng đường bộ số 55 Hà Nội-Đáp Cầu đi qua Từ Sơn và đường nhánh 179 từ Từ Sơn đi Đông Xuyên, Yên Phong; đường sắt Hà Nội-Lạng Sơn đi qua địa bàn Từ Sơn. Năm 1921, tư bản Pháp đã thành lập nhà máy sản xuất gạch ngói Hưng Ký có 300 công nhân, công suất ba triệu viên/năm ở Du Lâm.

Chính sách thuế khóa nặng nề và sự đàn áp dã man của chế độ thực dân phong kiến đã làm cho mâu thuẫn xã hội, nhất là mâu thuẫn giữa nông dân với phong kiến, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân ngày càng gay gắt, quyết liệt. Ở khắp nơi trong cả nước, nhân dân ta liên tiếp đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc. Từ Sơn là địa bàn hoạt động của những cuộc khởi nghĩa chống Pháp của Cai Vàng, Hoàng Hoa Thám… Các phong trào Cần Vương, Đông Kinh nghĩa thục, Việt Nam Quốc dân Đảng cũng thu hút đông đảo những người yêu nước Từ Sơn tham gia. Tuy nhiên tất cả đều đã thất bại nhanh chóng. Phải đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời thì phong trào mới được tổ chức chặt chẽ và hoạt động có hiệu quả.

II. SỰ RA ĐỜI CÁC TỔ CHỨC CÁCH MẠNG Ở TỪ SƠN (1926-1930)

1. Tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Từ Sơn

Những năm 20 của thế kỷ XX, ở Từ Sơn đã có số học sinh “Tây học” khá đông đảo, học ở trường tiểu học Từ Sơn, trường kiêm bị thị xã Bắc Ninh, trường trung học Bưởi-Hà Nội. Không ít trong số họ đã trưởng thành trong cao trào đấu tranh dân chủ công khai của tiểu tư sản thành thị trong những năm 1925-1926, nhất là không khí sôi sục sau các cuộc bãi khóa đòi thả nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu và truy điệu Phan Chu Trinh, nhiều học sinh ở Từ Sơn, tiêu biểu như Ngô Gia Tự (quê Tam Sơn), Nguyễn Văn Cừ (quê Phù Khê) đã rời ghế nhà trường ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân.

Năm 1924, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc) hoạt động cách mạng, truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, xây dựng đội ngũ cán bộ cách mạng cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Tháng 6-1925, Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên thu hút các phần tử ưu tú trong tầng lớp trí thức trẻ, cử người về trong nước vận động, lựa chọn thanh niên yêu nước đưa sang Trung Quốc dự các lớp huấn luyện chính trị do chính mình tổ chức.

Cuối năm 1926, theo đường dây đặc biệt, lớp thanh niên đầu tiên của Bắc Ninh là Nguyễn Tuân (quê ở Thị Cầu, Bắc Ninh)[1], Nguyễn Sơn (tức Vũ Nguyễn Bác, quê ở Kiêu Kỵ, Gia Lâm), Trần Tư Chính (tức Bàng Thống, quê ở Du Lâm, Từ Sơn), Nguyễn Hữu Căn (quê xã Đa Ngưu, Văn Giang) đã đến được lớp huấn luyện an toàn, được kết nạp vào Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, trở thành nòng cốt, hạt nhân của phong trào.

Tiếp đó có Ngô Gia Tự sinh năm 1908 tại làng Tam Sơn (tức Ngô Sĩ Quyết, hay Tú Háy, Bách), học cùng với Nguyễn Tuân ở trường Bưởi (Hà Nội), cũng bị đuổi học vì tham gia bãi khóa. Ngay sau đó, Ngô Gia Tự về quê (Tam Sơn) vừa dạy học vừa tự học để lấy bằng tú tài, tham gia nhiều hoạt động ở địa phương. Cuối năm 1926, Ngô Gia Tự được Nguyễn Công Thu (người được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cử từ nước ngoài về trong nước hoạt động), đánh giá cao, kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại số nhà 47 Trần Nhân Tông, Hà Nội, cùng sinh hoạt với Trịnh Đình Cửu, Trần Tích Du, Trần Tích Dương. Đầu năm 1927, Ngô Gia Tự được cử đi dự lớp huấn luyện do Tổng hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên mở tại Bản Đáy (Quảng Tây, Trung Quốc). Sau hai tháng học tập, Ngô Gia Tự được cử về Bắc Ninh hoạt động.

Ngô Gia Tự đã thành lập được tổ chức thanh niên cách mạng đầu tiên của Từ Sơn và tỉnh Bắc Ninh. Với bầu máu nóng của tuổi trẻ, với lòng nhiệt thành yêu nước và thấm nhuần phương pháp vận động cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, giữa năm 1927, tại xóm Xanh, làng Tam Sơn, thông qua người thân trong dòng tộc, bạn bè thân thiết, Ngô Gia Tự đã tuyên truyền giác ngộ và lập chi Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên làng Tam Sơn gồm 5 hội viên là Ngô Gia Hương, Ngô Tự Lan, Ngô Sách Ngọ, Ngô Gia Chỉ, Ngô Gia Tự, do Ngô Gia Hương (thư ký hương hội), làm bí thư.

Chi hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại làng Tam Sơn là chi hội đầu tiên của tỉnh Bắc Ninh do Ngô Gia Tự thử nghiệm về công tác tuyên truyền vận động thanh niên yêu nước ở nông thôn đi theo con đường cách mạng vô sản. Từ thành công này, Ngô Gia Tự tiếp tục gây dựng cơ sở và phát triển phong trào cách mạng trên địa bàn Từ Sơn và tỉnh Bắc Ninh. Đến giữa tháng 7-1927, Ngô Gia Tự đã thành lập được chi hội ở thị xã Bắc Ninh (chi hội Tiền An-Vệ An-Ninh Xá). Hội viên của chi hội này hầu hết là thợ thủ công, như Phạm Văn Chất, Hồ Ngọc Lân, Trần Văn Quảng, Trần Đức Minh, Trần Văn Thìn và các học sinh Thái Bá San, Trương Văn Nhã, do Phạm Văn Chất làm Bí thư.

Các cán bộ cốt cán như Ngô Gia Tự, Nguyễn Tuân, Nguyễn Hữu Căn, Nguyễn Quốc Uy, Dương Hạc Đính đã lăn lộn với phong trào để ươm trồng và phát triển các hạt giống cách mạng ở vùng đất Từ Sơn, Bắc Ninh giàu truyền thống yêu nước và văn hiến. Chỉ trong vòng 6 tháng cuối năm 1927, với sự năng nổ, nỗ lực của Ngô Gia Tự và các đồng chí của ông, tỉnh Bắc Ninh đã có 6 chi hội khoảng 40 hội viên.

Như vậy, phương pháp gây dựng cơ sở phát triển phong trào cách mạng của Ngô Gia Tự bắt nguồn từ nơi mình sinh ra, đã quen thung thổ và tính cách con người. Ông chú trọng đến thành phần công-nông, gia đình khá giả, hội viên Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là thanh niên, học sinh chiếm số lượng cao nhất. Do những đòi hỏi cấp bách của phong trào cách mạng ở địa phương và các điều kiện để thành lập tỉnh hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã đủ. Đầu năm 1926, Tỉnh hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Bắc Ninh được thành lập gồm 3 đồng chí Ngô Gia Tự (Bí thư), Nguyễn Tuân và Nguyễn Hữu Căn[2]. Sau khi thành lập, Tỉnh hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Bắc Ninh có nhiệm vụ lãnh đạo việc xây dựng phát triển phong trào cách mạng của tỉnh Bắc Giang-Bắc Ninh (nên sau đổi thành Tỉnh hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Bắc Ninh-Bắc Giang). Trụ sở đặt tại gia đình Nguyễn Tuân ở xóm Giầu (Thị Cầu). Trạm giao liên đặt tại nhà Hồ Ngọc lâm ở Niềm Thắng, thị xã Bắc Giang.

Trong tháng 4 và tháng 6-1928, dưới danh nghĩa thầy giáo dạy tư, Ngô Gia Tự đã mở hai lớp huấn luyện chính trị cho những hội viên mới là một số thanh niên học sinh yêu nước của Bắc Giang, Bắc Ninh. Tài liệu giảng dạy cho các lớp học trên là tác phẩm Đường kách mệnh của lãnh thụ Nguyễn Ái Quốc và các tài liệu khác. Sau các lớp huấn luyện, cơ sở Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên được mở rộng hơn. Các chi hội tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin qua tác phẩm Đường kách mệnh để khẳng định con đường giải phóng dân tộc đúng đắn của cách mạng Việt Nam, đấu tranh chống khuynh hướng tư tưởng phi vô sản, khẳng định vai trò cách mạng của giai cấp vô sản.

Thời kỳ này, nhiều thanh niên, học sinh người Từ Sơn, Bắc Ninh đã tham gia Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở nhiều địa phương khác nhau. Nguyễn Ngọc Vũ (tức Phan Phương), quê Từ Sơn, trú tại Khâm Thiên, Hà Nội, được kết nạp tại Hà Nội năm 1927. Nguyễn Công Miều (tức Lê Văn Lương), quê Xuân Cầu, Văn Giang, học sinh trường Bưởi, được kết nạp tại Hà Nội cuối năm 1927. Hạ Bá Cang (tức Hoàng Quốc Việt), quê Đáp Cầu, học sinh Trường kỹ nghệ thực hành Hải Phòng, bị đuổi học vì tham gia bãi khóa, được Nguyễn Đức Cảnh kết nạp tại Hải Phòng đầu năm 1928. Nguyễn Văn Cừ, quê Phù Khê Thượng, học sinh trưởng Bưởi (Hà Nội) bị đuổi học, vì ý thức bài Pháp được kết nạp tại Hà Nội cuối năm 1928. Sau khi bị đuổi học, Nguyễn Văn Cừ về Hà Lỗ (Đông Anh), dạy học và tiếp tục tham gia hoạt động cách mạng, trở thành một trong những hội viên tích cực của tổ chức này. Với sự hoạt động tích cực của các hội viên trong chi Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên làng Tam Sơn và các đồng chí Ngô Gia Tự, Nguyễn Văn Cừ, cơ sở cách mạng đã xuất hiện ở một số nơi trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh như: Phật Tích, Hà Lỗ, Ân Phú, nhà máy xe lửa Gia Lâm.

Năm 1928, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tiếp tục phát triển ra nhiều địa phương ở Bắc Ninh, Bắc Giang. Cuối năm 1928, Ngô Gia Tự thành lập thêm các chi hội Tam Sơn (Lạng Giang, Bắc Giang), Từ Nê-Chi Nê (Tiên Du), Yên Viên (Gia Lâm), thị trấn Gia Lâm và chi hội Vĩnh Phục-Ân Phú (Yên Phong). Tính đến cuối năm 1928, tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang đã có 14 chi hội, trên 100 hội viên, trong đó Từ Sơn có hai chi hội ở làng Tam Sơn và phố Yên Viên. Chi hội phố Yên Viên có các hội viên Nguyễn Duy Bình, Vũ Văn Độ, Nguyễn Thượng Biểu, do Nguyễn Duy Bình làm Bí thư.

Ngô Gia Tự là người có công đầu tuyên truyền và xây dựng cơ sở phát triển phong trào cách mạng theo con đường cách mạng vô sản ở Từ Sơn và tỉnh Bắc Ninh. Với tài năng, trí tuệ và sự nhạy bén của mình, năm 1928, Ngô Gia Tự được cử tham gia Kỳ hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Bắc Kỳ và được Kỳ hội phân công phụ trách phong trào “Vô sản hóa”.

Tháng 8-1928, Hội nghị Kỳ hội Bắc Kỳ tại nhà Ngô Gia Tự (Tam Sơn, Từ Sơn) đề ra chủ trương “Vô sản hóa”, đưa hội viên vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền và các xí nghiệp cùng lao động, cùng ăn, cùng ở với công nhân, để tuyên truyền giác ngộ cách mạng cho công nhân. Tổ chức công nhân đấu tranh giành quyền dân sinh, dân chủ. Đồng thời, qua đó các hội viên tự rèn luyện nâng cao lập trường giai cấp công nhân. Ngay sau đó, nhiều cán bộ cách mạng đã tích cực tham gia phong trào Vô sản hóa, như đồng chí Nguyễn Văn Mẫn đi làm mỏ than ở Mạo Khê, rồi sau đó kéo xe tay ở Hà Nội; Đỗ Hữu Thành đi làm kinh tế gây quỹ cho hội; Trịnh Thị Nhu và Trịnh Thị Uyển thâm nhập vào nhà máy dệt Nam Định.

Phong trào “Vô sản hóa” đã thúc đẩy mạnh mẽ, nhanh chóng phong trào công nhân nước ta tiến từ tự phát lên tự giác, từ giác ngộ dân tộc lên giác ngộ giai cấp và là biện pháp quan trọng để rèn luyện những trí thức cộng sản trở thành người thực thụ của giai cấp công nhân. Năm 1928-1929, ở nước ta đã nổ ra hàng chục cuộc bãi công lớn của công nhân, tiêu biểu nhất là các cuộc đấu tranh của công nhân xe lửa Trường Thi (Vinh), nhà máy sợi (Nam Định), nhà máy xi măng (Hải Phòng), đồn điền cao su Phú Riềng (Bình Phước), AVIA (Hà Nội)… Ngô Gia Tự trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh AVIA (Hà Nội) giành thắng lợi.

Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng đã tạo điều kiện cho sự ra đời của tổ chức cộng sản. Trước yêu cầu ấy, tháng 3-1929, tại số nhà 5D, phố Hàm Long (Hà Nội), Ngô Gia Tự cùng với các đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu, Trần Văn Cung, Đỗ Ngọc Du, Nguyễn Tuân, Nguyễn Phong Sắc, Dương Hạc Đính lập ra chi bộ cộng sản đầu tiên ở trong nước.

2. Tổ chức Đông Dương Cộng sản Đảng ở Từ Sơn

Sau 2 năm (1927-1929) tồn tại, hoạt động và phát triển Tỉnh hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Bắc Ninh-Bắc Giang đã làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào địa phương, xây dựng được một đội ngũ cán bộ cách mạng mới góp phần thúc đẩy phong trào yêu nước ở Từ Sơn sang lập trường vô sản. Nhưng tổ chức này không đủ sức để đưa cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi cuối cùng. Sứ mệnh đó phải do chính giai cấp vô sản, mà đại diện của nó là Đảng cộng sản-đội tiền phong của giai cấp công nhân thực hiện. Đồng chí Ngô Gia Tự và nhiều cán bộ lãnh đạo trong Kỳ bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Bắc Kỳ qua chỉ đạo thực tiễn phong trào, tổng kết quá trình vô sản hóa đã chỉ ra điều đó.

Ngày 28-3-1929, Đại hội Kỳ hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Bắc Kỳ đã cử Ngô Gia Tự, Trần Văn Cung, Nguyễn Tuân và Dương Hạc Đính đi dự Đại hội toàn quốc Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên khai mạc tại Hương Cảng (Hồng Kông, Trung Quốc). Tại Đại hội, Ngô Gia Tự đã thay mặt 1.700 hội viên Bắc Kỳ đưa ra đề nghị giải tán hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, thành lập Đảng Cộng sản. Đề nghị đó không được Đại hội chấp nhận, Đoàn đại biểu Bắc Kỳ và người kiên quyết nhất là Ngô Gia Tự đã bỏ Đại hội ra về.

Trở về đến Hà Nội, Ngô Gia Tự cùng với chi bộ cộng sản số 5D phố Hàm Long và các đồng chí tiên tiến trong Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên khẩn trương xúc tiến việc thành lập tổ chức Đảng Cộng sản. Ngày 17-6-1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập. Trong Tuyên ngôn thoát ly Đại hội về nước nêu rõ: “Chúng tôi không thể không đề nghị lập một đảng đại biểu cho vô sản giai cấp, một đảng duy nhất có thể giải quyết được các vấn đề quan hệ đến vô sản giai cấp, một đảng để lãnh đạo cho tất cả công cuộc cách mệnh ở An Nam, tức là Đảng Cộng sản”[3]. Tuyên ngôn của Đảng giới thiệu chủ nghĩa cộng sản và chuyên chính vô sản, đề ra đường lối cách mạng của Đảng ở Đông Dương, xác định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với cách mạng. Ngay sau khi thành lập, Đông Dương Cộng sản Đảng đã cử cán bộ, đảng viên vào miền Trung, miền Nam để xây dựng tổ chức đảng trong cả nước.

Từ giữa năm 1929, nhiều chiến sĩ cách mạng người Từ Sơn, Bắc Ninh lần lượt được đứng trong hàng ngũ của Đông Dương Cộng sản Đảng như Nguyễn Văn Cừ, Lê Văn Lương (Nguyễn Công Mều), Hoàng Quốc Việt (Hạ Bá Cang), Nguyễn Ngọc Vũ, Nguyễn Quốc Uy, Nguyễn Thị Lưu, Nguyễn Thị Minh, Nguyễn Văn Mẫn.

Tháng 7-1929, đồng chí Ngô Gia Tự, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương lâm thời Đông Dương Cộng sản Đảng về Bắc Ninh chọn các đồng chí Phạm Văn Chất, Hồ Ngọc Lân và Nguyễn Hữu Căn thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên ở hai tỉnh Bắc Ninh-Bắc Giang, giao cho họ nhiệm vụ tuyên truyền chính cương, điều lệ và tuyên ngôn của Đông Dương Cộng sản Đảng trong các chi Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.

Sự ra đời chi bộ cộng sản đầu tiên trên đánh dấu bước ngoặt quan trọng của phong trào cách mạng Bắc Ninh-Bắc Giang. Theo chỉ đạo của đồng chí Ngô Gia Tự, ngày 4-8-1929, tại núi Hồng Vân (Lim, Tiên Du), trên 20 Hội viên Việt Nam Cách mạng Thanh niên hai tỉnh, đã được triệu tập để thành lập Đảng bộ Đông Dương Cộng sản Đảng Bắc Giang-Bắc Ninh (sau hội nghị hợp nhất ở Hương Cảng, tháng 2-1930 chuyển thành Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Bắc Ninh-Bắc Giang). Hội nghị cử ra Ban chấp hành Đảng bộ gồm 5 đồng chí, do đồng chí Phạm Văn Chất làm Bí thư, các ủy viên: Hồ Ngọc Lân, Nguyễn Hữu Căn, Nguyễn Xuân Hồng, Trần Nhu. Toàn Đảng bộ có 4 chi bộ, trong đó có chi bộ nhà máy gạch Hưng Ký, còn gọi là nhà máy gạch Du Lâm thuộc Từ Sơn với ba đảng viên vô sản hóa là Ngô Gia Chỉ (tức Ngô Gia Trinh), Đàm Đức Hòa và Vương Văn Trà.

Để rèn luyện nâng cao năng lực lãnh đạo và công tác cho cán bộ đảng viên, Đông Dương Cộng sản Đảng chủ trương tiếp tục rèn luyện đảng viên trong môi trường vô sản hóa một cách thực sự và bắt buộc, tránh tình trạng “có người hăng hái đi vào nhà máy hoạt động, có người về hoạt động tại gia” như trước đây[4]. Đảng bộ Bắc Ninh-Bắc Giang cũng đặc biệt quan tâm đến vấn đề vô sản hóa. Ngoài số đảng viên được cử đến nhà máy gạch Hưng Ký (Yên Viên), các đồng chí Vũ Xuân Hồng, Trần Nhu, Nguyễn Khắc Trung (Bí thư tỉnh hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đến Bắc Ninh vô sản hóa) vào làm tại nhà máy giấy Đáp Cầu; đồng chí Vương Văn Nhã làm tại gara ôtô Sĩ Quang (Bắc Ninh), sau đó làm tại hiệu xe đạp Mécxê (Hàng Trống, Hà Nội); đồng chí Nguyễn Thị Lưu làm việc tại nhà máy gạch Nam Ký (Hà Nội); đồng chí Nguyễn Văn Cừ xuống mỏ than Vàng Danh (Quảng Yên). 

Trong quá trình vô sản hóa, xây dựng công hội đỏ và vận động công nhân, Chi bộ nhà máy gạch Hưng Ký đã kịp thời phát động 300 công nhân bãi công nhân sự kiện tên Cai Sáu đánh bị  thương một nữ công nhân vào ngày 29-9-1929. Yêu sách của cuộc đấu tranh là: tăng tiền lương, giảm giờ làm, không được đánh đập, cúp phạt lương công nhân, đuổi tên Cai Sáu gian ác, phải chữa chạy cho chị nữ công nhân bị Cai Sáu đánh trọng thương. Trước khí thế đấu tranh kiên cường, bất khuất của toàn thể công nhân, tên chủ nhà máy phải cầu cứu bọn thống trị Pháp đưa lính và mật thám đến đàn áp. Mặc dù chúng bắt 24 công nhân, nhưng cuộc đấu tranh vẫn được giữ vững. Công hội đỏ Bắc Ninh rải truyền đơn kêu gọi công nhân các nhà máy khác ở khu vực Gia Lâm ủng hộ, nhân dân các làng lân cận giúp đỡ, cổ vũ, động viên, kêu gọi ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân Nhà máy gạch Hưng Ký.

Được sự ủng hộ của công nhân các nhà máy, xí nghiệp thuộc khu vực Gia Lâm và nông dân các làng, ngày 4-10-1929, cuộc bãi công giành thắng lợi, chủ nhà máy gạch Hưng Ký phải chấp nhận thỏa mãn toàn bộ yêu sách của cuộc đấu tranh. Đây là thắng lợi đầu tiên của cuộc đấu tranh mang tính chất tự giác của phong trào công nhân tỉnh Bắc Ninh.

Giữa lúc phong trào cách mạng tỉnh Bắc Ninh và Từ Sơn đang trên đà phát triển mạnh mẽ thì bị địch khủng bố liên tiếp, gây ra tổn thất hết sức nặng nề. Bắt đầu từ sự việc ngày 10-10-1929, Nguyễn Tuân (tức Kim Tôn) - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương lâm thời Đông Dương Cộng sản Đảng trên đường đi công tác bị địch bắt tại bến đò Tân Đệ (Thái Bình). Không chịu được đòn thù tra tấn, Nguyễn Tuân đã khai báo nhiều điểm cực kỳ quan trọng về tổ chức cơ sở ở Bắc Ninh. Từ đầu mối này kẻ địch đã chuẩn bị một kế hoạch giăng lưới để bắt toàn bộ Ban Tỉnh ủy Bắc Ninh. Chưa đầy ba tháng (6-11-1929 đến 27-1-1930), bọn mật thám cùng bộ máy thống trị thực dân Pháp đã phá hầu hết các cơ sở cách mạng tỉnh Bắc Ninh, trong đó có Chi hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên phố Yên Viên, Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng Nhà máy gạch Hưng Ký. Đợt khủng bố này, toàn tỉnh Bắc Ninh bị địch bắt và giam giữ trên 40 người, bao gồm toàn Ban Tỉnh ủy và hầu hết các đảng viên của Đảng bộ. Phong trào cách mạng tỉnh Bắc Ninh lắng xuống và đứng trước thử thách lớn lao.

III. PHONG TRÀO CÁCH MẠNG Ở TỪ SƠN TRONG GIAI ĐOẠN 1930-1939

Năm 1930, phong trào cách mạng ở Từ Sơn từng bước được khôi phục lại. Để thiết thực kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga, ủng hộ Xôviết Nghệ-Tĩnh và hai cuộc đấu tranh của nông dân Tiền Hải (Thái Bình), Bình Lục (Hà Nam), tháng 11-1930, quần chúng cách mạng ở Nhà máy giấy Cổ Mễ, nhà máy pháo Đáp Cầu đã treo cờ đỏ búa liềm ở thị xã Bắc Ninh.

Tháng 4-1933, Phạm Huy Kha, quê làng Phù Lưu, Từ Sơn làm việc trong ngành đường sắt tại ga Hàm Rồng (Thanh Hóa) được đồng chí Nguyễn Tạo giác ngộ và kết nạp vào Đảng. Sau đó, đồng chí Phạm Huy Kha được giao nhiệm vụ trở về quê hương xây dựng cơ sở cách mạng. Đồng chí Kha đã giác ngộ cách mạng một số thanh niên là bạn bè, người thân, trong đó các anh Nguyễn Văn Như, Nguyễn Địch Khê, Nguyễn Địch Phát (Dũng) đã được tuyển chọn, kết nạp vào Đảng và chi bộ cộng sản làng Phù Lưu gồm bốn đảng viên, do đồng chí Phạm Huy Kha làm Bí thư thành lập. Chi bộ có nhiệm vụ tuyên truyền củng cố lòng tin cho quần chúng sau đợt khủng bố trắng của định. Hoạt động của chi bộ không chỉ bó hẹp ở Phù Lưu mà còn đi các nơi phát tài liệu, tuyên truyền cách mạng. Tháng 4-1934, chi bộ Thái Hà ấp (Hà Nội) nơi chi bộ Phù Lưu thường xuyên liên hệ, bị phá vỡ nên bọn mật thám lần ra đầu dây để phá vỡ phong trào cách mạng ở địa phương, chi bộ Phù Lưu tan rã[5].

Sự xuất hiện cờ đỏ búa liềm giữa thị xã Bắc Ninh, Nhà máy giấy Cổ Mễ và thành lập chi bộ đảng Phù Lưu đã chứng tỏ phong trào cách mạng ở Từ Sơn cũng như tỉnh Bắc Ninh dần dần được phục hồi và vươn lên.

Trước nguy cơ chiến tranh và thảm họa phát xít, từ ngày 25-7 đến ngày 20-8-1935, Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản với sự tham gia của 510 đại biểu đại dieenjn cho 65 đoàn đại biểu các Đảng Cộng sản đã họp tại Mátxcơva. Đại hội đã phân tích và chỉ rõ nguy cơ của cuộc chiến tranh đế quốc phátxít và đề ra nhiệm vụ thành lập Mặt trận thống nhất chống đế quốc, nhất là ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa.

Tháng 7-1936, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đề ra nhiệm vụ cách mạng Việt Nam là chống phản động thuộc địa và bè lũ tay sai, đấu tranh đòi quyền lợi dân chủ, dân sinh, cơm áo, hòa bình. Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận phản đế Đông Dương (sau đổi thành Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương, gọi tắt là Mặt trận Dân chủ Đông Dương), gồm các giai cấp, các đảng phái, các đoàn thể chính trị xã hội, các tôn giáo. Về tổ chức và phương thức đấu tranh, triệt để sử dụng hình thức công khai, hợp pháp nhằm tập hợp mọi giai tầng xã hội, giáo dục và đưa họ vào con đường đấu tranh thực hiện các khẩu hiệu là hòa bình, dân chủ, dân sinh.

Chính phủ Mặt trận bình dân Pháp lên cầm quyền đã ra lệnh toàn xá tù chính trị ở các nước thuộc địa. Do đó, từ cuối năm 1936, hàng chục chiến sỹ cộng sản của tỉnh Bắc Ninh được trả tự do trở về tiếp tục hoạt động cách mạng, như các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Quốc Việt, Trần Xuân Doanh, Vương Văn Trà, Dương Quang Chiểu, Trương Văn Nhã, Nguyễn Thị Lưu cùng nhiều đồng chí khác.

Tháng 11-1936, Nguyễn Văn Cừ được thả tự do từ Côn Đảo trở về quê làng Phù Khê. Không một chút dừng chân, nghỉ bước, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã lao ngay vào hoạt động cách mạng, xây dựng phát triển phong trào. Đầu năm 1937, đồng chí Nguyễn Văn Cừ ở chùa Vĩnh Lại (thôn Phù Khê Đông) 10 ngày với nhà sư Nguyễn Văn Học[6]. Hai chú cháu đàm đạo với nhau việc đạo, việc đời. Đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã giác ngộ cách mạng cho nhà sư Nguyễn Văn Học, ông không chỉ làm việc đạo mà còn cổ động phật tử tham gia cứu nước, cứu dân.

Ngày 15-1-1937, làng Phù Khê vào đám mở hội, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã tham dự và nói chuyện với dân làng. Sau khi ca ngợi công lao đánh đuổi quân xâm lược của đức thánh Tam Giang-thành hoàng làng Phù Khê, đồng chí Nguyễn Văn Cừ nói về truyền thống dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt Nam, khêu gợi lòng yêu nước của mọi người trước cảnh nước nhà đang bị thực dân Pháp đô hộ, chà đạp lên nhân phẩm, bóc lột nhân dân đến tận xương, tận tủy… Bài nói chuyện của đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã tác động mạnh mẽ đến nhân dân Phù Khê, nhất là lớp thanh niên, nhân sỹ về tinh thần yêu nước.

Ngày 16-2-1937, kỷ niệm 370 năm mất của tiến sỹ Nguyễn Quỳnh Cư, cháu năm đời của Nguyễn Trãi, tại từ đường họ Nguyễn, thôn Phù Khê Thượng, Nguyễn Văn Cừ[7] đã có cuộc nói chuyện với các bậc cha chú, anh chị em trong dòng họ. Đồng chí kêu gọi mọi người hãy sống có đạo lý, noi gương tổ tiên làm việc hữu ích cho đời, nhất là trong lúc này đất nước đang bị thực dân đô hộ, mỗi thành viên trong dòng tộc hãy tham gia gánh vác trách nhiệm cứu nước, cứu dân thoát cảnh lầm than nô lệ.

Trong năm 1937-1938, phong trào cách mạng của quần chúng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh cũng như ở Từ Sơn phát triển sôi động dưới nhiều hình thức như hội hiếu, hội hỉ, hội tương tế, hội hát trống quân, hội tập võ, hội thợ cấy, hội thợ cày, hội đọc sách báo. Ở Từ Sơn xuất hiện tầng lớp thanh niên học sinh mới đi theo con đường cách mạng vô sản, như Nguyễn Duy Thân, Lê Quang Đạo (tức Nguyễn Đức Nguyện), Nguyễn Trọng Tỉnh (tức Nguyễn Tiến Cúc), quê ở Đình Bảng, học sinh của trường Bưởi (Hà Nội). Được đọc sách báo công khai tiến bộ, có nội dung chống phátxít do Mặt trận dân chủ Đông Dương tổ chức, Lê Quang Đạo, Nguyễn Duy Thân, Nguyễn Trọng Tỉnh dần dần được giác ngộ, ý thức được trách nhiệm cứu nước, cứu dân của mình. Đầu năm 1938, Lê Quang Đạo tham gia phong trào thanh niên dân chủ ở Hà Nội. Giữa năm 1938, về quê nghỉ hè, Lê Quang Đạo cùng lớp thanh niên yêu nước như Nguyễn Duy Thân, Nguyễn Tiến Thảo (tức Thảo Lim), Nguyễn Trọng Tỉnh… tổ chức hội đọc sách báo công khai tiến bộ của Đảng.

Thời kỳ này các báo Tin tức, Lao động, Tiếng nói của chúng ta, Hồn trẻ, Tiếng trẻ, Thời thế, Bạn dân, Đời nay, Thợ thuyền, Chiến đấu… cùng với tác phẩm Vấn đề dân cày của Qua Ninh và Vân Đình[8], cuốn Chủ nghĩa cộng sản sơ giản được phổ biến rộng rãi. Làng Đình Bảng có phong trào đọc sách báo rầm rộ nhất. Các điếm canh trong làng trở thành phòng đọc sách báo hàng ngày của hàng trăm thanh niên, trung niên, cụ già, em nhỏ. Ngoài ra còn phải kể đến phong trào đọc sách báo ở Phù Lưu, Cẩm Giang, Phù Khê, Trang Liệt. Thông qua sách báo, chủ trương, đường lối của Đảng được truyền bá đến nhiều tầng lớp nhân dân, giai tầng xã hội, nhất là thế hệ trẻ, thanh niên, học sinh, như Nguyễn Chấn (Trang Liệt), Lê Đông, Nguyễn Việt (Phù Lưu). Nhiều người đã biết đến Cách mạng Tháng Mười Nga, đến nhà nước liên bang Xôviết, nhà nước xã hội chủ nghĩa, không còn cảnh người bóc lột người.

Làng Đình Bảng có phong trào truyền bá chữ quốc ngữ rất mạnh mẽ và sôi nổi, thu hút đông đảo các giới, mọi lứa tuổi tự nguyện cắp sách đến lớp học chữ quốc ngữ. Đêm Tết Trung thu năm 1938, Lê Quang Đạo cùng những thanh niên yêu nước Đình Bảng đã tổ chức cuộc rước đèn để cổ động phong trào truyền bá chữ quốc ngữ, gây tiếng vang lớn trong toàn huyện Từ Sơn. Đình Bảng trong thời kỳ vận động dân chủ, các tầng lớp quần chúng đã được tập hợp vào các tổ chức đọc sách báo, hội truyền bá quốc ngữ, hội thể thao, phường bát âm, hội thợ cày, thợ cấy… Ở mỗi tổ chức phường hội công khai hợp pháp này đều có nhóm trung kiên làm nòng cốt, là tiền đề để Đình Bảng tiến bước trên con đường cách mạng giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Trong những năm 1936-1939, ở phố Từ Sơn, phố Yên Viên, các làng Phù Lưu, Cẩm Giang, Trang Liệt… có các tổ chức phường, hội, phong trào đọc sách báo tiến bộ, truyền bá quốc ngữ thu hút nhiều thanh niên tham gia.

Anh Phạm Văn Hảo quê làng Phù Lưu mở hiệu sách Đồng Xuân ở phố Hàng Gạo (Hà Nội), đã cung cấp khá nhiều sách báo công khai tiến bộ trong thời kỳ cách mạng dân chủ cho các cơ sở Đình Bảng, Phù Lưu, Cẩm Giang, Trang Liệt. Những thanh niên, học sinh như Lê Chính Tâm, Lê Việt, Cả Vét, Chu Bật, Ty, Tài Viện (Phù Lưu), Nguyễn Chấn, Trần Lê Nhân (Trang Liệt), Lương Minh (Cẩm Giang) thông qua đọc sách báo tiến bộ đã nâng cao lòng yêu nước và đi theo con đường cách mạng dân tộc dân chủ do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.

Ở Phù Lưu, các anh Nguyễn Văn Tâm (tức Lê Đông) cùng Lê Việt, Cả Vét, Chu Bật… đã tổ chức hoạt động dưới nhiều hình thức để tập hợp thanh niên tuyên truyền yêu nước tiến bộ như kể chuyện anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo, Quang Trung, tổ chức đọc sách báo tiến bộ… Về phụ nữ có chị Chu Thị Ngọ, Nguyễn Thị Phương, chị Chắt, chị Nhạn được tập hợp dưới hình thức đan len ở Kiến Tân Lâu.

Trên văn đàn, một số nhà văn như Ngô Tất Tố (làng Mai Lâm), Nguyễn Huy Tưởng (làng Dục Tú), Nguyễn Kim Lân (làng Phù Lưu) đã cho ra đời một số tác phẩm hiện thực phê phán, góp phần vào cuộc đấu tranh giành quyền dân chủ, dân sinh, cơm áo hòa bình trong thời kỳ vận động dân chủ 1936-1939.

Hòa chung với phong trào đấu tranh giành quyền dân sinh, dân chủ trong tỉnh, trong nước, nhân dân Từ Sơn cũng đã giành được những kết quả khả quan về trình độ giác ngộ cách mạng, về nhiệt tình yêu nước, hàng trăm quần chúng ở hàng chục làng xóm, phố phường đã tham gia đấu tranh chống phát xít, chống phản động thuộc địa giành quyền lợi dân sinh dân chủ, cơm áo, hòa bình và vào các tổ chức ái hữu, nghiệp đoàn, hội quần chúng công khai hợp pháp. Đồng thời, Từ Sơn còn có hàng chục nhà cách mạng, trong đó có các nhân vật tiêu biểu là các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Văn Trân, Lê Quang Đạo, Phạm Văn Hảo có những đóng góp to lớn vào phong trào cách mạng trong cả nước và của quê hương Từ Sơn.

Đầu năm 1939, tình hình thế giới có nhiều biến động, nguy cơ nổ ra chiến tranh thế giới lần thứ hai đã đến gần. Chính phủ Pháp do Đalađiê nắm quyền đi vào con đường phản động. Ở Đông Dương, chúng tăng thuế, bán công trái, đàn áp quần chúng đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ, báo Dân chúng-cơ quan ngôn luận của Đảng bị đình bản, bắt nhân viên tòa báo, tịch thu tài sản. Không khí khủng bố tràn lan khắp nơi. Khả năng hoạt động công khai, hợp pháp không còn. Đảng ta chủ trương xây dựng căn cứ bí mật ở nông thôn để khi cần có thể nhanh chóng chuyển vào hoạt động bất hợp pháp, tránh tổn thất do quân thù khủng bố. Các đồng chí Hoàng Quốc Việt, Lê Hoàng, Tô Quang Đẩu, Trần Xuân Doanh, Nguyễn Đức Quỳ được cử về Bắc Ninh gây dựng cơ sở, chuẩn bị căn cứ bí mật. Ở Từ Sơn, các cơ sở Đình Bảng, Phù Lưu, Cẩm Giang, Trang Liệt, Phù Khê đều được chuyển vào hoạt động bí mật.

Thời kỳ mặt trận dân chủ chấm dứt, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới: đấu tranh giành độc lập dân tộc. Hòa cùng trào lưu ấy, Đảng bộ và nhân dân Từ Sơn bước vào thời kỳ xây dựng lực lượng, chuẩn bị mọi điều kiện tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám 1945. 

B. Tổ chức đảng ở Từ Sơn ra đời lãnh đạo tham gia xây dựng an toàn khu I và khởi nghĩa giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám (1939 - 1945)

I. TỔ CHỨC ĐẢNG Ở TỪ SƠN RA ĐỜI, LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VÀ PHONG TRÀO CÁCH MẠNG (1939-1941)

Ngày 1-9-1939, phátxít Đức tiến công Ba Lan, mở đầu cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Ngày 3-9-1939, phátxít Đức tuyên chiến với nước Pháp và nước Anh. Chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra làm cho tình hình thế giới chuyển biến hết sức nhanh chóng và phức tạp, nó cũng gieo thêm tai họa nặng nề cho nhân dân ta. Tại Đông Dương, thực hiện chính sách kinh tế thời chiến, chính quyền thực dân ra sức vơ vét của cải bằng cách tăng thu thuế, phát hành công trái, thu mua thóc gạo, bắt lính, bắt phu. Bộ máy cai trị bị phát xít hóa, xóa hết mọi quyền tự do dân chủ, báo chí tiến bộ bị đóng cửa, khám xét, bắt người diễn ra liên tục làm cho đời sống chính trị trở nên vô cùng ngột ngạt, đời sống kinh tế vô cùng khó khăn. Mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là giữa nông dân với địa chủ phong kiến và mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với bọn đế quốc thực dân và bè lũ tay sai của chúng càng trở nên gay gắt.

Ngày 29-9-1939, Đảng ta ra Thông cáo khẩn cấp chỉ rõ: “Hoàn cảnh Đông Dương sẽ tiến bước đến vấn đề dân tộc giải phóng”[1]. Từ ngày 6 đến ngày 8-11-1939, Ban Chấp hành Trung ương họp hội nghị lần thứ sáu tại Bà Điểm (Hóc Môn-Gia Định) do đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Tổng Bí thư chủ trì, chủ trương tạm gác khẩu hiệu ruộng đất, chỉ đề ra khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc, chống tô cao, chống lãi nặng. Hội nghị xác định rõ: “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập. Đế quốc Pháp còn, dân chúng Đông Dương chết. Đế quốc Pháp chết, dân chúng Đông Dương còn”[2]. Do xác định  nhiệm vụ chủ yếu hàng đầu của cách mạng là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng dân tộc nên hình thức tổ chức, đấu tranh, phương pháp cách mạng, công tác cán bộ cũng thay đổi cho phù hợp với chủ trương chỉ đạo chiến lược cách mạng của Đảng.

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ sáu đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu, chứng tỏ sự nhạy bén chính trị và sự sáng tạo của Đảng trong công tác lãnh đạo cách mạng, đã góp phần làm phong phú kho tàng lý luận về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Dười ánh sáng Nghị quyết hội nghị lần thứ sáu, được sự chỉ đạo trực tiếp của Xứ ủy Bắc Kỳ, Đảng bộ Bắc Ninh sớm chuyển vào hoạt động bí mật.

Từ Sơn là nơi có phong trào cách mạng tương đối vững mạnh trong thời kỳ Dân chủ 1936-1939, lại ở vị trí thuận lợi, tiếp giáp với thủ đô Hà Nội, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước, là chiếc cầu nối giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ, thủ đô Hà Nội với các tỉnh trung du, miền núi phía bắc của Tổ quốc. Do đó, thị xã Từ Sơn được Trung ương Đảng và Xứ ủy Bắc Kỳ trực tiếp chỉ đạo chuyển vào bí mật bất hợp pháp. Những cơ sở cách mạng ở Đình Bảng, Cẩm Giang, Trang Liệt, Phù Lưu, Yên Viên,... đã tuyển chọn những quần chúng trung kiên trong các tổ chức ái hữu, nghiệp đoàn, hội hiếu, hội hỉ, hội hát trống quân, hội đọc sách báo, phường nuôi lợn... vào các tổ chức nông dân phản đế, thanh niên phản đế, phụ nữ phản đế và chuyển vào hoạt động bí mật.

Năm 1939, đồng chí Lê Hoàng được Xứ ủy Bắc Kỳ cử về phụ trách hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh, với nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng đường dây liên lạc bằng hệ thống cơ sở cách mạng theo trục tuyến quốc lộ 1A từ Hà Nội lên các tỉnh biên giới phía bắc. Đầu năm 1940, đường dây liên lạc theo quốc lộ 1A qua các cơ sở cách mạng ở Nhà máy xe lửa Gia Lâm, phố Yên Viên, phố Đuống (Gia Lâm), làng Đình Bảng, Phù Lưu, Cẩm Giang, Trang Liệt, Phù Khê, Đồng Kỵ, Tam Sơn (Từ Sơn) đã đi vào hoạt động. Nhiều thanh niên được tuyển chọn trung kiên và gia đình cơ sở chuyển hướng hình thức tổ chức, hình thức đấu tranh bất hợp pháp đi vào hoạt động bí mật.

Tuy chưa được gia nhập Đảng, nhưng trong quá trình thử thách, rèn luyện trong trường đấu tranh cách mạng, lớp thanh niên học sinh yêu nước Từ Sơn đã trưởng thành, là cốt cán của phong trào, tiêu biểu là Lê Quang Đạo, Nguyễn Duy Thân, Nguyễn Tiến Thảo (tức Thảo Lim), Nguyễn Trọng Tỉnh (Đình Bảng); Phạm Văn Hảo, Nguyễn Văn Tâm (tức Lê Đông), Lê Việt, Lê Văn Loan, Cả Vét, Chu Bật (Phù Lưu); Nguyễn Văn Phúc (Cẩm Giang), Nguyễn Chấn (Trang Liệt), Nguyễn Duy Bình, Vũ Văn Độ, Nguyễn Duy Viên, Nguyễn Thượng Biểu, Lưu Văn Bình, Trần Văn Quý (phố Đuống và phố Yên Viên). Gia đình các đồng chí là những cơ sở bí mật, tin cậy của cách mạng.

Nhà cụ Nguyễn Tiến Tuận (tức cụ Đám Thi), thân sinh các đồng chí Nguyễn Tiến Thảo, Nguyễn Trọng Tỉnh; nhà cụ Hương Canh, thân sinh đồng chí Nguyễn Thị Đồng (Đình Bảng); nhà ông Lê Tấn Dân, nhà thờ họ Lê Công Thần (Phù Lưu); nhà đồng chí Trần Văn Quý, Nguyễn Duy Viên (Yên Viên) là cơ sở, nơi ăn ở, hội họp của các đồng chí cán bộ của Xứ ủy Bắc Kỳ và Thường vụ Trung ương Đảng như Lê Hoàng, Phạm Văn Đông (Kỳ Vân), Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Trường Chinh. Trực tiếp chỉ đạo phong trào tỉnh Bắc Ninh chuyển từ công khai, hợp pháp vào hoạt động bí mật, bất hợp pháp là đồng chí Lê Hoàng và đồng chí Phạm Văn Đông, cán bộ Xứ ủy Bắc Kỳ.

Nhân kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga (7-11-1939), lớp thanh niên nhiệt thành như Lê Quang Đạo, Nguyễn Duy Thân, Nguyễn Trọng Tỉnh, Nguyễn Tiến Thảo (Đình Bảng); Nguyễn Văn Tâm (Phù Lưu); Nguyễn Văn Phúc (Cẩm Giang) đầu năm 1940 đã bí mật đi bộ, đi xe đạp rải truyền đơn, dán áp phích, treo cờ đỏ búa liềm ở Lăng lòng chảo (Đình Bảng), làng Trang Liệt, Đồng Kỵ, Phù Khê, phố Từ Sơn, phố Yên Viên… để thức tỉnh lòng yêu nước và cổ vũ quần chúng lên đường đấu tranh, đánh đổ ách thống trị thực dân phong kiến bạo tàn.

Tháng 4-1940, đồng chí Phạm Văn Đông (Kỳ Vân), được Xứ ủy Bắc Kỳ cử về phụ trách chỉ đạo phong trào cách mạng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh thay đồng chí Lê Hoàng. Sau một thời gian bồi dưỡng và thử thách, tháng 6-1940, đồng chí Phạm Văn Đông đã tuyển chọn được 6 đoàn viên thanh niên phản đế ưu tú là Nguyễn Duy Thân, Nguyễn Đức Nguyện (tức Lê Quang Đạo), Nguyễn Tiến Cúc (tức Nguyễn Trọng Tỉnh) ở Đình Bảng; Lê Việt, Nguyễn Văn Tâm (tức Lê Đông) ở Phù Lưu; Nguyễn Văn Phúc (tức Lương Minh) ở Cẩm Giang, kết nạp vào Đảng. Tháng 7-1940, Chi bộ ghép Đình Bảng-Phù Lưu-Cẩm Giang được thành lập, do đồng chí Phạm Văn Đông trực tiếp làm Bí thư. Sau khi được thành lập, chi bộ được giao nhiệm vụ lãnh đạo phong trào cách mạng ở Từ Sơn và các vùng phụ cận. Thông qua bạn bè và người thân, các đảng viên của Chi bộ đã tích cực hoạt động, nhanh chóng xây dựng, phát triển cơ sở sang các làng Phù Chẩn, Tam Sơn, Đồng Kỵ, Phù Lưu, Trang Liệt (Từ Sơn), Trung Màu, Dương Húc (Tiên Du).

Từ tháng 8-1940 đến tháng 11-1941, chi bộ ghép Đình Bảng- Phù Lưu-Cẩm Giang phát triển thêm các đồng chí Nguyễn Tiến Thảo (tức Thảo Lim); Nguyễn Chương, Nguyễn Văn Xuyến, Nguyễn Hữu Ngoạn, Nguyễn Ly, Nguyễn Đức Phùng (tức Lê Quang Tuấn), Nguyễn Thị Đồng ở Đình Bảng; Trục Tụ (tức Lê Chấn), Bẩy Cối ở Cẩm Giang; Nguyễn Chấn, Trần Lê Nhân ở Trang Liệt vào Đảng. Do đó, chi bộ đã tách ra lập thành hai chi bộ: Đình Bảng là một chi bộ độc lập; Phù Lưu-Cẩm Giang-Trang Liệt là chi bộ ghép.

Làng Đình Bảng nằm ven quốc lộ 1A và cách phủ lỵ Từ Sơn 1 km, cách ga Yên Viên hơn 4 km nên rất cơ động. Là một làng bán công, bán thương lại có nghề nhuộm thâm nên ngày đêm nhộp nhịp như phố, chợ. Từ sáng sớm đã có hàng trăm người đến để làm thuê như cày cấy, gặt hái và lấy bùn ao, chặt lá báng, lá sim phục vụ hàng trăm lò ngả thâm. Trong làng có phố, có chợ,  cửa hiệu tạp hóa, hàng ăn luôn tấp nập. Đó là chưa kể hàng trăm gia đình buôn bán hàng tấm có mối giao lưu với người buôn nơi khác đến.

Lợi dụng đặc điểm ấy, Trung ương Đảng đã chọn làng Đình Bảng làm cơ sở cách mạng. Từ đầu năm 1940, gia đình cụ Nguyễn Tiến Tuận (cụ Đám Thi) ở Đình Bảng đã trở thành nơi đi lại, ăn ở, làm việc của các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt. Thân mẫu cụ Đám Thi hằng ngày đến chùa Đồng Kỵ tụng kinh niệm Phật. Cụ thường đưa đồng chí Trường Chinh đến gặp nhà sư Phạm Thông Hòa trụ trì chùa Đồng Kỵ. Được tuyên truyền giác ngộ, nhà sư Hòa trở thành cơ sở cách mạng, nuôi dưỡng, bảo vệ đồng chí Trường Chinh và các cán bộ của Trung ương, Xứ ủy bắc Kỳ an toàn, bí mật trong suốt thời kỳ 1940-1945 tại chùa Đồng Kỵ, chùa Lã, chùa Dặn, chùa Lành-do nhà sư trụ trì và trông coi.

Giữa năm 1940, ở châu Âu, phátxít Đức chiếm nước Pháp; ở châu Á, phátxít Nhật ra sức hoạt động bành trướng. Ngày 22-9-1940, quân Nhật nhảy vào đánh chiếm Đông Dương, thực dân Pháp hèn hạ dâng Đông Dương cho Nhật chiếm đóng. Từ đây nhân dân ta phải chịu cảnh áp bức, bóc lột một cổ hai tròng của cả thực dân Pháp - phátxít Nhật.

Trong điều kiện quân đội Pháp rút chạy, bọn tay sai hoang mang tan rã, ngày 27-9-1940, Đảng bộ Bắc Sơn đã lãnh đạo nhân dân vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền châu lỵ Bắc Sơn và làm chủ các vùng xung quanh.

Trước tình hình trên, từ ngày 6 đến ngày 11-11-1940, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ bảy tại nhà cụ Đám Thi (Đình Bảng). Tham dự hội nghị có các đồng chí: Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt (Hạ Bá Cang), Phan Đăng Lưu, Trần Đăng Ninh. Hội nghị chỉ rõ kẻ thù chính của cách mạng Đông Dương lúc này là phát xít Pháp-Nhật; tiếp tục chủ trương chuyển hướng chiến lược, xác định nhiệm vụ giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương lần thứ sáu (11-1939) là hoàn toàn đúng; quyết định phát triển ảnh hưởng của khởi nghĩa Bắc Sơn và hoãn cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, cử ra Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, đồng chí Trường Chinh được phân công làm quyền Tổng Bí thư của Đảng.

Các đồng chí đảng viên và quần chúng cách mạng ở Đình Bảng, Phù Lưu, Cẩm Giang đã đưa đón, bảo vệ, an toàn, phục vụ chu đáo Hội nghị Trung ương bảy. Gia đình cụ Đám Thi đã trực tiếp lo ăn, ở và đảm bảo bí mật tuyệt đối trong suốt những ngày Hội nghị diễn ra[3]. Đồng chí Trường Chinh đã nói: “Đình Bảng và Vạn Phúc (Hà Đông) là hai lô cốt thép của Đảng, ở hai nơi này đã không có đồng chí Trung ương nào bị bắt”[4].

Ngày 23-11-1940, cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ bùng nổ. Mặc dù Hội nghị Trung ương lần thứ bảy quyết định hoãn cuộc khởi nghĩa, nhưng do đồng chí Phan Đăng Lưu bị bắt, nên không kịp truyền đạt chỉ thị của Trung ương, cuộc khởi nghĩa thất bại, bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Ngày 13-1-1941, khởi nghĩa Đô Lương do Đội Cung lãnh đạo bùng nổ, song cũng thất bại.

Trong một thời gian ngắn, từ tháng 9-1940 đến đầu tháng 1-1941, ba cuộc nổi dậy (Bắc Sơn, Nam Kỳ, Đô Lương) ở cả ba miền tuy không thành công, nhưng đã báo hiệu thời kỳ khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền ở nước ta bắt đầu.

Chi bộ đảng Đình Bảng và Cẩm Giang-Trang Liệt tổ chức cuộc mít tinh ở lăng Lòng Chảo (Đình Bảng), treo cờ, rải truyền đơn ở chùa Vĩnh Lại (Phù Khê), Đồng Kỵ... nhằm động viên và huy động quần chúng ủng hộ gạo, tiền, quần áo, dao kiếm cho các chiến sĩ Bắc Sơn, Nam Kỳ. Thông qua đó giáo dục tinh thần yêu nước cho quần chúng, phát triển cơ sở và mở rộng địa bàn hoạt động ở địa phương.

Cuối năm 1940 và những năm tiếp theo, gia đình nhà cụ Hương Canh, cụ Hương Bổng ở Đình Bảng; ông Vũ Văn Chấn ở Nội Trì; ông Hai Dân ở Phù Lưu đã trở thành nơi làm việc, hội họp, ăn nghỉ thường xuyên của các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Hoàng Văn Thụ,...

Tháng 4-1941, đồng chí Lê Quang Đạo thành lập chi bộ ghép Phù Chẩn (Từ Sơn), Dương Húc (Tiên Du) gồm ba đảng viên là đồng chí Nham (tức Hải), Ngà (Phù Chẩn, Từ Sơn), Thành Vân (Dương Húc, Tiên Du). Tháng 5-1941, một số đảng viên ở Phù Lưu bị địch bắt, số còn lại được cấp trên điều động đi thoát ly cho nên chi bộ này tan rã. Riêng chi bộ Cẩm Giang-Trang Liệt có ba đảng viên là Nguyễn Chấn, Trần Lê Nhân và Trục Tụ.

Tháng 6-1941, đồng chí Hoàng Quốc Việt giao cho chi bộ Đình Bảng tuyển chọn một số con em các cơ sở cách mạng ở Đình Bảng như: Phẩm, Nha, Ngân... thành lập đội Nhi đồng cứu quốc vong, làm nhiệm vụ thông tin liên lạc cho cán bộ ra vào hoạt động ở Đình Bảng (đánh dấu ký hiệu bằng các dấu “an toàn” và dấu “động”. Nếu thấy dấu “an toàn” thì cán bộ đi lại bình thường, còn nếu thấy dấu “động” thì cán bộ tìm đường khác mà tránh. Hoặc dưới hình thức trẻ em vui chơi ở các ngả đường vào làng để thu lượm tin tức báo với cán bộ để kịp thời xử lý).

Quán triệt Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám (5-1941) và Hội nghị Ban Cán sự Đảng tỉnh Bắc Ninh (3-7-1941), các làng Đình Bảng, Cẩm Giang, Trang Liệt, Phù Chẩn, Yên Lã, Phù Khê, Yên Viên, Hội Phụ thành lập các đoàn thể nông dân cứu quốc, hội phụ nữ cứu quốc, thanh niên cứu quốc. Một số nơi có đội tự vệ, có Mặt trận Việt Minh.

Tháng 8-1941, chi bộ Đình Bảng tổ chức cuộc mít tinh quần chúng ở lăng Lòng Chảo để tuyên truyền chương trình đánh Pháp, đuổi nhật của Mặt trận Việt Minh có hàng chục quần chúng tham dự. Trong tháng 11-1941, Ban Cán sự Đảng tỉnh Bắc Ninh đã mở hai lớp huấn luyện đào tạo cán bộ Việt Minh. Nội dung huấn luyện là tuyên truyền chương trình, Điều lệ của Việt Minh, phương pháp vận động quần chúng, công tác bí mật. Vào dịp kỷ niệm cách mạng tháng Mười Nga (ngày 7-11-1941), truyền đơn, áp phích, cờ đỏ sao vàng xuất hiện ở ga xe lửa Từ Sơn, phố Nhân Thọ. Một số cơ sở đã tổ chức họp các giới phụ lão, phụ nữ, thanh niên nghe nói chuyện về cách mạng Tháng Mười Nga, biểu thị niềm tin vào Liên Xô.

Cuối năm 1941, thực dân Pháp tăng cường đàn áp phong trào cách mạng, nhiều cán bộ lãnh đạo của Đảng sa vào tay giặc, nhiều cơ sở cách mạng bị phá vỡ. Trước tình hình đó, Trung ương Đảng và Xứ ủy Bắc Kỳ có chủ trương xây dựng khu an toàn (ATK) để bảo vệ cán bộ và bảo vệ cơ sở cách mạng, giữ vững phong trào đấu tranh cách mạng. Từ Sơn, nơi có phong trào cách mạng mạnh lại là nơi có điều kiện giao thông thuận lợi được Trung ương và Xứ ủy Bắc Kỳ chọn làm địa bàn xây dựng An toàn khu I.

II. THỜI KỲ THAM GIA XÂY DỰNG AN TOÀN KHU I CỦA TRUNG ƯƠNG ĐẢNG VÀ XỨ ỦY BẮC KỲ (từ năm 1941 đến tháng 3-1945)

Khi chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, bộ máy thống trị thực dân ở nước ta đã phátxít hóa, Đảng ta chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, phong trào cách mạng nước ta phải rút vào hoạt động bí mật, bất hợp pháp thì ý tưởng lập khu an toàn đã bắt đầu có trong tư duy một số đồng chí Trung ương Đảng và Xứ ủy Bắc Kỳ.

Cuối năm 1941, trước sự khủng bố gắt gao của địch, để bảo vệ an toàn cho cán bộ cách mạng, đồng thời phải bám sát phong trào quần chúng để chỉ đạo cách mạng trong điều kiện giáo thông liên lạc không thuận lợi, nên Trung ương Đảng đã chủ trương xây dựng An toàn khu (AKT) trong trong lòng thủ đô Hà Nội và các địa phương lân cận. Vì thế, sau khi dự Hội nghị Trung ương lần thứ tám ở Pắc Bó (Cao Bằng) trở về, đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư và Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định chọn quận V, quận IV nội thành Hà Nội và ở một số vùng nông thôn xung quanh Hà Nội thuộc các tỉnh Bắc Ninh, Hà Đông, Phúc Yên, Hưng Yên, trong đó có nhiều làng xã ở Từ Sơn để xây dựng An toàn khu (ATK) I của Trung ương Đảng và Xứ ủy Bắc Kỳ. Năm 1943, Trương ương xây dựng An toàn khu II (dự bị) ở một số địa phương thuộc các huyện Hiệp Hòa (Bắc Giang), Phú Bình, Phổ Yên (Thái Nguyên).

Cốt lõi của An toàn khu ở Từ Sơn là các cơ sở cách mạng ở Đình Bảng, Phù Khê, chùa Đồng Kỵ, Đồng Hương, Lã, Nành. Những làng này đều có phong trào cách mạng vững mạnh, ở vào vị trí cơ động, có điều kiện thuận lợi cho việc bảo vệ, nuôi dưỡng các cơ quan, hội nghị, lớp tập huấn. Từ giữa năm 1941 đến ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Từ Sơn thuộc Khu an toàn I của Trung ương Đảng và Xứ ủy Bắc Kỳ, trong đó Đình Bảng là địa phương rất trọng yếu, là lô cốt thép của Đảng, phố Đuống, phố Yên Viên, ga Yên Viên là đầu mối giao thông huyết mạch giúp Trung ương thông tin liên lạc chỉ đạo phong trào cách mạng trong cả nước.

An toàn khu có đội công tác do Thường vụ Trung ương Đảng chỉ định. Mỗi đồng chí công tác phụ trách một địa bàn nhất định, hoạt động độc lập với Đảng bộ địa phương. Tổ chức Đảng, Mặt trận Việt Minh, các đoàn thể Thanh niên cứu quốc, Tự vệ cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Nhi đồng cứu quốc, Tự vệ vũ trang trong An toàn khu đều do công tác đội đảm trách. Tuyệt đối bí mật là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của An toàn khu. Ở An toàn khu, có nhiều cơ quan, hội nghị, lớp tập huấn, đơn vị nào biết đơn vị ấy. Không được bộc lộ lực lượng, phải làm cho phong trào ở đây im lìm (đang ngủ), làm cho quân thù không ngờ tới”, công việc của ai người ấy biết, cơ quan nào ở nhà ai, ở thôn nào, ở xóm nào thì tự mình biết, không được tiết lộ cho người khác. Làm như thế mới bảo đảm an toàn khi quân thù khủng bố, chúng chỉ phá được từng nơi, từng chỗ, từng mắt xích chứ không thể phá được toàn bộ hệ thống tổ chức của cách mạng. “Nó giống như con tàu ngầm, từng khoang tàu đều độc lập với nhau, chẳng may một, hai khoang bị thủng, nước dồn vào ta bấm nút đóng cửa nước không thể vào khoang bên cạnh, con tàu vẫn tiếp tục hoạt động, vẫn nổi lên được mặt nước”[5].

An toàn khu có nhiệm vụ nuôi dưỡng, bảo vệ mọi hoạt động của Trung ương Đảng và Xứ ủy Bắc Kỳ. Tại đây có địa điểm làm việc, hội họp, tổ chức các lớp huấn luyện chính trị, quân sự, cơ quan giao thông, nơi ở của cán bộ làm việc, cơ quan in ấn và phát hành sách báo… của Trung ương Đảng và Xứ ủy Bắc Kỳ. Hàng chục hội nghị, lớp huấn luyện, cơ quan của Trung ương Đảng và Xứ ủy Bắc Kỳ được bảo vệ, chăm sóc chu đáo, tuyệt đối an toàn trong hoàn cảnh đời sống còn vô cùng khó khăn, thiếu thốn, kẻ địch ngày đêm dình rập khủng bố. Điều đó thể hiện tấm lòng trung thành với cách mạng của cán bộ, đảng viên và quần chúng Từ Sơn đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Gia đình cụ Đám Thi, cụ Hương Canh, cụ Hương Bổng (Đình Bảng); nhà sư Phạm Thông Hòa (chùa Đồng Kỵ); cụ Đồ Duyệt (Phù Khê); cụ Quản Tiếp (Cẩm Giang),... đã không tiếc công, tiếc của, không sợ nhà tan, cửa nát, tra tấn tù đày, một lòng một dạ với cách mạng[6].

Tháng 2-1942, các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, đang họp tại gác hai nhà cụ Đám Thi (Đình Bảng) bàn việc duy trì và phát triển căn cứ du kích Bắc Sơn thì bị lộ, bọn mật thám Pháp ập đến. Nghe thấy tên Luýt (mật thám Pháp), tên Phán Sinh (Tây lai) hỏi chị Hòa (con gái cụ Đám Thi) ở sân, biết bị lộ, các đồng chí Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt đã nhanh chóng nhảy qua tường nhà bếp để đi ra cổng làng. Đồng chí Trường Chinh chạy sau cùng đến cuối sân đã nép vào đầu hồi ra cổng, thoát ra ngõ xóm[7] đã được ấn định từ trước. Đồng chí Trường Chinh và Hoàng Văn Thụ được đưa về cơ sở cách mạng ở Tam Sơn, còn đồng chí Hoàng Quốc Việt trở về Cẩm Giang, ngay tối hôm đó đồng chí trở về nhà anh Hùng, cơ sở cách mạng ở làng Tam Sơn an toàn. Không bắt được các đồng chí lãnh tụ của Đảng, tên Phán Sinh cùng đồng bọn vô cùng tức giận, chúng bắt cụ Đám Thi và chị Hòa, anh Pho (con cụ Đám Thi) đưa về Sở mật thám đánh đập, tra tấn rất dã man hòng khai thác tìm đầu mối, nhưng chúng không thể khuất phục được ý chí gang thép, lòng trung thành vô hạn của cha con cụ Đám Thi.

Sau đó, địch thường xuyên lùng sục các cơ sở cách mạng ở Đình Bảng. Tháng 3-1942, địch khủng bố Đình Bảng, chúng bắt các đồng chí Nguyễn Đức Phùng (tức Lê Quang Tuấn), Nguyễn Đức Vượng, Nguyễn Kim Tín, đảng viên chi bộ Đình Bảng; Trần Văn Ba (Bính Hạ) đưa đi giam tại nhà lao Bắc Ninh. Mặc dù bị khảo tra, tù đày nhưng các đồng chí vẫn giữ vững khí tiết của người cộng sản. Tiếp đó, các đồng chí Nguyễn Phụ Thụ (tức Nguyễn Ly), Nguyễn Duy Thân, Nguyễn Tiến Thảo (tức Thảo Lim), Nguyễn Thị Canh (tức Đồng) ở Đình Bảng cũng lần lượt bị sa vào lưới mật thám. Trong nhà tù đế quốc, dù bị bọn đao phủ khảo tra hết sức dã man, tàn bạo nhưng các đảng viên và quần chúng cách mạng Đình Bảng vẫn dũng cảm, giữ vững khí tiết của người cộng sản, của người cách mạng. Nữ đảng viên cộng sản Nguyễn Thị Canh trong nhà tù đế quốc vô cùng bền gan vững chí, kiên cường bất khuất, được đồng chí Trường Chinh-Tổng Bí thư của Đảng đặt tên là “Đồng”-Nguyễn Thị Đồng-vững như Đồng.

Đồng chí Nguyễn Trọng Tỉnh, đảng viên chi bộ Đình Bảng được Trung ương Đảng điều động làm công tác đội tại An toàn khu I của Trung ương phụ trách vùng Từ Sơn, Gia Lâm, Thuận Thành, Tiên Du và sau này phụ trách Khu an toàn II, vùng Hiệp Hòa, Phổ Yên, Phú Bình, Yên Thế. Trong suốt thời gian làm công tác đội (1941-1945), đồng chí Nguyễn Trọng Tỉnh hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được Trung ương giao phó.

Năm 1942, các cơ sở cách mạng ở Phù Khê, Trang Liệt, Cẩm Giang, Phù Lưu, Nội Trì, Phù Chẩn cũng bị địch khủng bố, bọn mật thám và chính quyền tay sai ở địa phương liên tục bị lục soát, khám xét để tìm bắt cán bộ cách mạng. Chi bộ Đảng Đình Bảng, Trang Liệt bị địch khủng bố ác liệt. Một số đảng viên bị sa vào tay giặc, một số bị lộ, được cấp trên điều động đi thoát ly, số còn lại thì hoạt động rời rạc.

Sau khi đồng chí Nguyễn Trình (tức Yên), Vũ Kiên bị sa vào tay giặc, đồng chí Lê Quang Đạo[8] được cử làm trưởng Ban cán sự Đảng tỉnh Bắc Ninh. Tháng 8-1942, Xứ ủy điều động đồng chí Liên Cường (tức Vinh Rỗ) từ Thái Bình về làm Trưởng Ban cán sự Đảng Bắc Ninh (thay đồng chí Lê Quang Đạo) và nữ đồng chí San làm ủy viên.

Từ Sơn có vị thế trọng yếu của An toàn khu I, được Trung ương Đảng và Xứ ủy Bắc Kỳ chỉ đạo sát sao. Năm 1943, phong trào cách mạng được phục hồi. Các đồng chí Trung ương Đảng và Xứ ủy Bắc Kỳ như đồng chí Hoàng Quốc Việt, Chu Thiện, Nguyễn Văn Trân, Văn Tiến Dũng… đi về Đình Bảng, Cẩm Giang, Phù Khê, Trang Liệt, Yên Viên, Nội Trì ăn ở, hoạt động. Gia đình cụ Đám Thi, cụ Hương Canh, cụ Hương Bổng, cụ Hương Tuyên (Đình Bảng), ông Hội Trấn (Nội Trì), cụ Quản Tiếp (Cẩm Giang), cụ Đồ Duyệt (Phù Khê) và các chùa Đồng Kỵ, Yên Lã, Chùa Dặn, chùa Lành, do sư Phạm Thông Hòa trụ trì là những cơ sở tin cậy của Đảng.

Tháng 8-1943, sau khi được Xứ ủy cử giữ chức Trưởng Ban cán sự Đảng tỉnh Bắc Ninh (thay Liên Cường)[9], đồng chí Văn Tiến Dũng đã tập hợp các đảng viên cũ, kết nạp đảng viên mới và thành lập chi bộ ghép Đình Bảng-Trang Liệt gồm 5 đảng viên là đồng chí Nguyễn Phụ Thụ (tức Nguyễn Ly), Nguyễn Tiến Giao, Nguyễn Thị Đồng (Đình Bảng), các đồng chí Nguyễn Chấn, Trần Lê Nhân (Trang Liệt), do đồng chí Nguyễn Phụ Thụ làm bí thư. Sau khi đồng chí Nguyễn Phụ Thụ tham gia Ban Cán sự huyện Từ Sơn, đồng chí Nguyễn Thị Đồng được cử làm Bí thư chi bộ Đình Bảng-Trang Liệt.

Tháng 8-1943, đồng chí Văn Tiến Dũng thành lập Ban cán sự Đảng Từ Sơn, gồm ba đồng chí: Nguyễn Chấn, Nguyễn Phụ Thụ, Trần Lê Nhân, do đồng chí Nguyễn Chấn làm Bí thư.

Đồng chí Văn Tiến Dũng chỉ đạo cho các đảng viên tích cực tuyên truyền cương lĩnh đánh Pháp đuổi Nhật, cứu nước của Mặt trận Việt Minh, tổ chức quần chúng vào các đoàn thể cứu quốc, tổ chức lực lượng tự vệ.

Đình Bảng có chi bộ mạnh, có các tổ chức quần chúng cứu quốc vững, có đội nhi đồng cứu quốc có kinh nghiệm cảnh giới đối với bọn mật thám như: đánh dấu động, dấu yên ở những nơi quy định trên đường quốc lộ, tỉnh lộ, đường làng, ngõ xóm đảm bảo cho cán bộ Trung ương, Xứ ủy về cơ sở trong làng Đình Bảng an toàn. Đình Bảng có nghề thủ công, nghề buôn bán, dân cư đông đúc, sinh hoạt nửa nông thôn, nửa thành thị, nhiều người qua lại thăm viếng, buôn bán, làm thuê, ít ai quan tâm đến người quen, người lạ, có phố, chợ ở ngay trong làng hoạt động nhộn nhịp ban ngày, ban đêm thuận lợi cho cán bộ cải trang ra vào Đình Bảng.

Cùng với Đình Bảng là Trang Liệt, Nội Trì, Cẩm Giang, chùa Đồng Kỵ, chùa Lã, chùa Dặn, chùa Lành, Phù Khê, Phù Chẩn, Yên Viên… đều là nơi có phong trào cách mạng mạnh, là cơ sở của An toàn khu I của Trung ương Đảng và Xứ ủy Bắc Kỳ. Các cơ sở cách mạng Từ Sơn đã ở thế liên hoàn với các địa bàn xung quanh như Gia Lâm, Thuận Thành, Tiên Du, Yên Phong, Đông Anh. Từ các cơ sở cách mạng Từ Sơn qua đường giao liên bí mật theo đường quốc lộ 1A, qua cơ sở phố Viềng, phố Hòa Đình, Thị Cầu sang Bắc Giang đi lên các tỉnh biên giới phía Bắc. Từ Sơn theo đường 179 qua sông Cầu sang Hiệp Hòa (Bắc Giang), Phổ Yên, Phú Bình (Thái Nguyên), qua sông Đuống sang Thuận Thành.

Cuối năm 1943, các chi bộ Đình Bảng-Trang Liệt, Phù Chẩn-Dương Húc,… được củng cố, lãnh đạo nhân dân địa phương đấu tranh chống sưu cao, thuế nặng, chống cướp đất, chống phá màu trồng đay, chống thu mua thóc tạ. Được cách mạng mang lại quyền lợi, quần chúng phấn khởi, hăng hái tham gia Việt Minh. Phong trào Việt Minh ở Đình Bảng, Trang Liệt, Phù Chẩn, Phù Lưu, Cẩm Giang,… phát triển mạnh mẽ, thế liên hoàn cách mạng được hình thành.

Giữa năm 1944, đồng chí Ngô Gia Khảm từ nhà tù Sơn La trở về bị quản thúc tại quê nhà làng Tam Sơn, theo định kỳ phải đến tri phủ Từ Sơn trình diện. Tuy vậy, đồng chí vẫn liên lạc với Đảng để tiếp tục hoạt động cách mạng. Ngô Gia Khảm cùng với vợ đã ra phố Từ Sơn, ở nhờ ngôi nhà của người cậu để làm nghề chữa cân kiếm sống và hoạt động cách mạng. Được đồng chí Nguyễn Văn Trân, Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ giao nhiệm vụ tổ chức sản xuất và sửa chữa vũ khí, đồng chí Ngô Gia Khảm đã bí mật lập xưởng tại nhà ở của mình ở phố Từ Sơn. Sau khi nghiên cứu thành công sản xuất lựu đạn, lại được Xứ ủy tăng cường thêm các anh Nguyễn Ngọc Xuân, Hải, Liễu, địa điểm phố Từ Sơn trở nên quá chật hẹp, vì thế đã chuyển đến ở làng Chè (Tiên Du). Loạt lựu đạn đầu tiên được sản xuất và thử nghiệm thành công ở làng Chè đã cung cấp vũ khí quan trọng cho lực lượng vũ trang của địa phương.

Tháng 7-1944, tại phố Yên Viên, Xứ ủy Bắc Kỳ thành lập chi bộ trực thuộc có sáu đảng viên: Nguyễn Thượng Biểu (tức Cả Am), Nguyễn Duy Viên, Trần Văn Quý, Bạch Di, Lưu Xuân Bình, Vũ Độ, do đồng chí Nguyễn Duy Viên làm Bí thư. Nhiệm vụ chủ yếu của chi bộ là lãnh đạo phong trào quần chúng địa phương, đưa đón cán bộ của Trung ương Đảng, Xứ ủy Bắc Kỳ, giao thông liên lạc cho Trung ương và Xứ ủy đi Bắc-Trung-Nam.

Sau vụ bị lý trưởng làng Sen Hồ (Gia Lâm) bắt đồng chí Văn Tiến Dũng, Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ, trên đường từ Thuận Thành sang Trung Mầu (Tiên Du), Ban Thường vụ Xứ ủy vẫn theo dõi sát diễn biến để nắm tin tức. Tháng 11-1944, mật thám Hà Nội đưa đồng chí Văn Tiến Dũng về giam giữ tại nhà tù Bắc Ninh. Ban Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ do đồng chí Nguyễn Văn Trân, Bí thư Xứ ủy chỉ đạo cho cán bộ địa phương tìm cách giải thoát đồng chí Văn Tiến Dũng. Thực hiện chủ trương trên, ta thông qua anh Thăng ở làng Đại Tảo (Tiên Du), lính gác xà lim, trộm mẫu chìa khóa của nhà tù, đưa ra làm chìa khóa khác. Thực hiện nhiệm vụ đó, đêm ngày 26-12-1944, anh Thăng bố trí cho lính gác đánh bạc, uống rượu say và dùng chìa khóa mở xà lim để đồng chí Văn Tiến Dũng cùng đồng chí đồng chí Nguyễn Đức Phùng (tức Lê Quang Tuấn), đảng viên chi bộ Đình Bảng cũng bị giam, vượt ngục ra ngoài. Khoảng quá nửa đêm đồng chí Văn Tiến Dũng và đồng chí Nguyễn Đức Phùng dùng dây thừng và chăn dạ vượt tường rào dây thép gai ra khỏi nhà tù, hai đồng chí trở về cơ sở cách mạng làng Trung Mầu (Tiên Du) an toàn khi trời vừa sáng.

Cuối năm 1944, Đình Bảng được Trung ương Đảng giao trách nhiệm nuôi dưỡng, thuốc thang chữa bệnh cho các đồng chí cán bộ vượt ngục tù đế quốc trở về với Đảng, với cách mạng. Các đồng chí Vương Thừa Vũ, Trần Quý Kiên, Hà Kế Tấn… đã chữa bệnh, an dưỡng tại gia đình cụ Hương Canh, Hương Bổng, Hương Tuyên, cở sở cách mạng Đình Bảng.

Sang năm 1945, tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến. Hội nghị Yanta (2-1945) các nước Đồng Minh quyết định tổng phản công tiêu diệt phátxít Đức, phân chia vùng chiếm đóng và lập ra Liên hợp quốc. Phátxít Nhật ở châu Á cũng đang tiến dần đến ngày diệt vong. Ở Đông Dương, mâu thuẫn Nhật-Pháp hết sức gay gắt, dâng cao đến cực độ, chúng sẽ cắn xé nhau chí tử. Nhật sẽ hất cẳng Pháp để độc chiếm Đông Dương. Tình thế cách mạng hết sức khẩn trương, Trung ương Đảng và Xứ ủy Bắc Kỳ chỉ đạo các địa phương ra sức đưa phong trào cách mạng lên cao trào kháng Nhật, cứu nước và khởi nghĩa giành chính quyền.

III. CAO TRÀO KHÁNG NHẬT CỨU NƯỚC VÀ KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN Ở TỪ SƠN TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM (từ ngày 12-3 đến tháng 8-1945)

Đúng như dự đoán của Đảng ta, đêm mồng 9-3-1945, Nhật đã đảo chính Pháp. Giữa lúc tiếng súng nổ của cuộc đảo chính Nhật-Pháp ở Hà Nội, thì Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng họp tại chùa làng Đồng Kỵ, nhưng có dấu hiệu bị lộ, nên đã chuyển về nhà thờ họ Nguyễn ở làng Đình Bảng[10]. Hội nghị do đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư chủ trì; thành phần gồm các đồng chí: Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Văn Trân, Lê Thanh Nghị, Lê Đức Thọ, Trần Đăng Ninh[11]. Đến trưa 12-3-1945 cuộc họp kết thúc, Hội nghị đã ra bản Chỉ thị lịch sử Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta[12], kim chỉ nam cho mọi hoạt động của toàn Đảng, toàn dân trong thời kỳ cao trào kháng Nhật, cứu nước và khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám năm 1945 thắng lợi.

Trong lúc Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng đang họp ở nhà thờ họ Nguyễn làng Đình Bảng thì trên đường quốc lộ 1A qua địa phận Đình Bảng một số lính khố đỏ tan tác do Nhật đảo chính Pháp mang theo súng chạy trốn. Tự vệ Đình Bảng được lệnh tước vũ khí của bọn lính rồi cho anh em về với gia đình.

Vào thời điểm này, Đảng bộ Từ Sơn đã có các chi bộ: Đình Bảng, Yên Viên, chi bộ ghép Phù Chẩn và chi bộ Trang Liệt, là hạt nhân lãnh đạo phong trào.

Thời kỳ cao trào kháng Nhật cứu nước tiến lên giành chính quyền được Thường vụ Trung ương và Xứ ủy Bắc Kỳ cho phép Từ Sơn thuộc An toàn khu được áp dụng hình thức tổ chức đấu tranh chống áp bức bóc lột của phátxít Nhật, bọn cường hào, quần chúng được xuống đường biểu tình, tuần hành thị uy… đúng với thời kỳ tiền khởi nghĩa.

Quán triệt Chỉ thị Sửa soạn khởi nghĩa ngày 7-5-1945 của Tổng bộ Việt Minh, Ban Cán sự Đảng Từ Sơn chỉ đạo tích cực đẩy mạnh tổ chức và hoạt động của các đội tự vệ, đội du kích, lập “quỹ mua súng” và tự chế tạo vũ khí thô sơ. Ban Cán sự Đảng Từ Sơn đã tổ chức ba lớp huấn luyện quân sự cho tự vệ, du kích tại rừng Sặt (Trang Liệt). Các cơ sở Đình Bảng, Trang Liệt, Yên Viên, Phù Chẩn, Đông Hội đều quyên tiền để mua sắm vũ khí trang bị cho tự vệ, du kích. Tại Phù Chẩn đã thành lập đội nữ du kích gồm 15 người, được trang bị vũ khí tuy thô sơ.

Đội tuyên truyền xung phong của Từ Sơn thường xuyên vũ trang tuyên truyền công khai ở những nơi đông người nhằm biểu dương thanh thế của Việt Minh, hiệu triệu quần chúng ủng hộ và tham gia Việt Minh lên đường cứu nước. Đối với những tên phản động, những phần tử chống đối cách mạng, Đội vũ trang tuyên truyền xung phong dùng biện pháp giáo dục, cảnh cáo, xử lý đối với những tên nguy hiểm cố tình chống đối. Hoạt động của Đội vũ trang tuyên truyền xung phong đã góp phần đẩy nhanh cao trào kháng Nhật cứu nước của huyện Từ Sơn. Đến tháng 6-1945, Từ Sơn được bổ sung gần một chục cán bộ, do đó phong trào phát triển đồng đều, toàn bộ các làng, xã đã thành lập Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Thiếu niên cứu quốc, Nhi đồng cứu quốc. Về lực lượng tự vệ ở mỗi làng xã có ít nhất một tiểu đội, nhiều nhất là một trung đội đến hai hoặc ba trung đội, hội họp, mittinh, luyện tập quân sự, hát những bài ca cách mạng… rộn rã suốt ngày đêm. Về thực quyền ở làng, xã đã do Việt Minh nắm giữ, bộ máy ngụy quyền tay sai phátxít Nhật ở cơ sở chỉ còn là cái xác không hồn. Hình thức hai chính quyền song song tồn tại ở các làng, xã ở Từ Sơn.

Tri phủ Từ Sơn Phạm Gia Đĩnh bất lực trước phong trào đấu tranh của quần chúng, không thu nổi thóc thuế, không thu mua nổi thóc theo đầu tạ, quân đội Nhật đã phải đích thân đến Phù Ninh đốc thuế, thu thóc. Nhận được tin này, cán bộ Việt Minh phụ trách tổng Phù Ninh liền họp đại biểu Việt Minh các xã trong toàn tổng để bàn về chủ trương, biện pháp đối phó. Hội nghị quyết định phát động quần chúng đánh Nhật, giữ thóc. Tri phủ Từ Sơn Phạm Gia Đĩnh, phần tử ngoan cố chống đối cách mạng, cố tình thu thóc, thu thuế nộp cho phát xít Nhật, trong khi đồng bào ta chết đói đầy đường, đầy chợ và trong các xóm làng. Trước sự cố tình thu thóc, thu thuế nộp cho Nhật, đêm 14-7-1945, cách mạng đã tuyên án tử hình đối với Phạm Gia Đĩnh tại điếm canh đê làng Hạ Dương, tổng Phù Ninh. Sau khi Phạm Gia Đĩnh bị trừng trị, bọn nha lại, lính tráng ở phủ Từ Sơn rất hoang mang dao động, chính quyền bù nhìn tỉnh Bắc Ninh phải tăng cường lính bảo an đến đóng giữ phủ lỵ Từ Sơn.

Ngày 30-7-1945, 2 tên lính Nhật, 7 lính bảo an vào làng Phù Ninh (Từ Sơn) áp tải xe bò chuyển thóc ra ga Yên Viên. Lập tức, trống báo động được đánh liên hồi, tự vệ và quần chúng các làng Đình Bảng, Phù Lưu, Dương Lôi, Yên Lã, Phù Chẩn (Từ Sơn); Dương Húc, Đại Vi, Đại Thượng, Ve, Phù Đổng (Tiên Du),… với trên 2.000 người, vũ khí trong tay kéo đến Phù Ninh. Dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh các làng, nhân dân đắp ụ ngăn chặn quân Nhật kéo xe bò chuyển thóc từ Phù Ninh về Yên Viên, đồng thời tự vệ, quần chúng bố trí hai bên đường chiến đấu chống Nhật. Phụ nữ, thiếu nhi các làng mang cơm, mang nước đến tận trận địa cho tự vệ. Giữa lúc đó, đồng chí Trần Đình Nam (tức Cao Đàm)-Trưởng ban Cán sự Đảng tỉnh Bắc Ninh đến, và nhận thấy việc chiến đấu giữa vùng đồng bằng; các vị trí Nhật đóng quân ở Yên Viên, Gia Lâm không xa, sẽ gây đổ máu và hậu quả khôn lường nên đã chỉ đạo chuyển hướng quần chúng sang đấu tranh chính trị, bằng biểu tình quần chúng. Tuy nhiên, do một số có hành động quá khích bị 2 tên lính Nhật nổ súng làm 1 người chết, 6 người bị thương.

Đây là thắng lợi đầu tiên và là cuộc đấu tranh có số lượng người tham gia đông nhất của tỉnh Bắc Ninh, tiêu biểu cho tinh thần của quần chúng chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền, gây tiếng vang lớn trong tỉnh Bắc Ninh và khu vực.

Ngày 9-8-1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật. Hồng quân Liên Xô đã nhanh chóng tiêu diệt hoàn toàn một triệu quân Quan Đông của Nhật, giải phóng hoàn toàn vùng Đông Bắc Trung Quốc và miền Bắc Triều Tiên. Ngày 14-8-1945, phát xít Nhật đầu hàng quân Đồng Minh vô điều kiện. Quân đội của chúng trên hầu hết chiến trường hoàn toàn tan rã. Giờ phút khởi nghĩa giành chính quyền đã thực sự chín muồi, thời cơ ngàn năm có một để giành độc lập cho dân tộc đã đến. Trong thế cuộc chuyển biến mau lẹ đó, từ ngày 13 đến 15-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) đã quyết định phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Cùng ngày, ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ra Quân lệnh số 1: Lệnh tổng khởi nghĩa toàn quốc. Tổng bộ Việt Minh ra lời hiệu triệu: “Giờ tổng khởi nghĩa đã đến! Dân tộc ta đã đến lúc vùng dậy cướp lại độc lập của mình”[13]. Ngày 16 và 17-8-1945, Đại hội Quốc dân Tân Trào họp và bầu ra Uỷ ban dân tộc giải phóng (tức Chính phủ Cách mạng lâm thời), do Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta từ Bắc chí Nam nhất tề vùng dậy tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

Trong tháng 8-1945, toàn bộ chính quyền cấp cơ sở, cấp phủ ở Từ Sơn đã về tay cách mạng, trong đó, Đình Bảng giành chính quyền sớm nhất. Ngày 16-8, đồng chí Hoàng Văn Tiến (tức Nguyễn Kim Đức), đảng viên được chi bộ cử làm chủ tịch Ủy ban cách mạng lâm thời xã Đình Bảng. Ở Phù Khê, đoàn biểu tình quần chúng đã tiến hành tước triện bạ của lý trưởng; các xã Tiến Bào, Nghĩa Lập, Phù Khê tuyên bố thủ tiêu chính quyền thực dân phong kiến và thành lập Ủy ban cách mạng lâm thời. Cuộc giành chính quyền cấp cơ sở ở các xã trong toàn phủ Từ Sơn đều diễn ra nhanh chóng và thuận lợi. Ủy ban cách mạng lâm thời các xã đều công bố trước nhân dân xóa thuế thân, xóa mọi thứ thuế vô lý, thực hiện nam nữ bình quyền, bình đẳng…

Ở phủ Từ Sơn, sau khi tri phủ Phạm Gia Đĩnh bị trừng trị vì cố tình thu thuế, thu thóc cho Nhật, bọn nha lại, binh lính trong đồn rất lo sợ, chính quyền bù nhìn tỉnh Bắc Ninh phải tăng cường lính bảo an đến canh giữ phủ lỵ Từ Sơn.

Sáng ngày 18-8-1945, lực lượng khởi nghĩa với hàng nghìn người bao gồm tự vệ và quần chúng các làng, xã Phù Lưu, Cẩm Giang, Tam Lư, Phù Chẩn, Trang Liệt… với gươm giáo, gậy gộc trong tay và tiếng tù và thổi liên hồi rầm rập tiến bước dưới bóng cờ đỏ sao vàng năm cánh tiến về phủ lỵ Từ Sơn. Trước khí thế cách mạng hùng mạnh ở thế chẻ tre, lính bảo an gác phủ lỵ đã mang theo súng rút chạy, nhưng bị tự vệ chặn lại ở đường phố Từ Sơn và tước súng. Biết rằng không thể chống cự được, số lính bảo an còn lại trong phủ đường đã đầu hàng, mở cổng nộp súng, xin Việt Minh tha tội. Lực lượng khởi nghĩa chiếm giữ, canh gác bảo vệ phủ lỵ Từ Sơn. Sau đó vài ngày, Ủy ban cách mạng lâm thời phủ Từ Sơn được thành lập do đồng chí Phạm Huy Kha làm Chủ tịch, phụ trách công tác Đảng là đồng chí Lã Triều Khu tức Lê Khánh.

Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám 1945 trên phạm vi cả nước cũng như ở Từ Sơn đánh dấu một bước ngoặt lịch sử vĩ đại, đập tan ách thống trị của chế độ thực dân phong kiến, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do của Tổ quốc, đưa nhân dân lao động trở thành người chủ nhân thực sự của quê hương đất nước. Từ đây, nhân dân Từ Sơn đã thoát khỏi cảnh ngựa trâu một cổ hai tròng của thực dân Pháp, phátxít Nhật, tích cực xây dựng chính quyền cách mạng, chuẩn bị kháng chiến chống thực dân Pháp.

Sáng ngày 2-9-1945, hàng trăm quần chúng, tự vệ tiểu biểu của Từ Sơn đã vinh dự được về quảng trường Ba Đình lịch sử nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Cách mạng lâm thời đọc Bản tuyên ngôn bất hủ, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á.

C. Đảng bộ huyện Từ Sơn lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954)

I. THỜI KỲ BẢO VỆ VÀ CỦNG CỐ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG (từ 2-9-1945 đến 19-12-1946)

Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh long trọng công bố trước quốc dân đồng bào cùng toàn thế giới bản “Tuyên ngôn độc” lập bất hủ, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”[1]. Với ý chí không có gì quý hơn độc lập tự do, Đảng bộ và nhân dân Từ Sơn đã dũng cảm vượt lên khó khăn gian khổ, tiến bước vững chắc trên con đường cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Bác Hồ.

Chính quyền cách mạng non trẻ mới ra đời còn trong “trứng nước” đã phải đương đầu với hàng loạt khó khăn, thử thách cực kỳ nghiêm trọng. Nạn thù trong giặc ngoài đe dọa vận mệnh dân tộc. Kinh tế-tài chính nghèo nàn, kiệt quệ, văn hóa thấp kém, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.

Về đời sống kinh tế, hậu quả của chính sách cai trị tàn bạo, khốc liệt của thực dân Pháp, phátxít Nhật, bắt nhân dân ta nhổ lúa để trồng đay, trưng thu, trưng mua lương thực phục vụ cho chiến tranh, gây nên nạn đói năm Ất Dậu (1945). Thêm vào đó, ngay trong những này cách mạng tháng 8-1945, mưa lớn làm đê Cống Vực (sông Cà Lồ) bị vỡ, gây ngập lụt toàn Từ Sơn và các huyện Yên Phong, Tiên Du, Võ Giàng, Quế Dương, thị xã Bắc Ninh, nhiều nhà cửa, đường giao thông và hàng ngàn hécta lúa, hoa màu bị tàn phá. Cả Từ Sơn bị thiên tai điêu tàn, nạn dịch bệnh tái phát làm hàng trăm người chết.

Về chính trị, nhân dân Từ Sơn phải đối phó với nạn thù trong, giặc ngoài. Đầu tháng 9-1945, hơn 20 ngàn quân Tưởng Giới Thạch ồ ạt tràn vào miền Bắc núp dưới danh nghĩa quân Đồng Minh để “hạ vũ khí” quân Nhật, nhưng thực chất chúng nhằm “tiêu diệt Đảng ta, phá tan Việt Minh và giúp đỡ bọn phản động trong nước lật đổ chính quyền nhân dân, lập chính quyền bù nhìn tay sai cho chúng”[2]. Quân Tưởng còn kéo theo bọn phản động Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc), Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội (Việt Cách) làm tay sai cho chúng, chống phá cách mạng. Quân Tưởng có hàng nhìn tên đóng ở Yên Viên hậu thuẫn bọn Việt Quốc, Việt Cách chống lại chính quyền cách mạng, gây rối cuộc sống mới của nhân dân ta. Bọn Việt Quốc, Việt Cách mạo danh tự xưng là những người yêu nước theo chủ nghĩa quốc gia, xuyên tạc, nói xấu chủ nghĩa cộng sản. Chúng có nhiều hoạt động phá hoại ở Yên Viên, phố Từ Sơn, Đình Bảng gây nhiều khó khăn cho chính quyền non trẻ các địa phương.

Về văn hoá, giáo dục: Hậu quả của chính sách đô hộ của chế độ thực dân phong kiến đã làm cho trên 70% dân số Từ Sơn mù chữ. Bên cạnh đó các tệ nạn xã hội, các hủ tục của chế độ cũ như cờ bạc, rượu chè, hút sách, mê tín dị đoan... còn ảnh hưởng nặng nề trong đời sống người dân, làm hạn chế đến việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.

Đứng trước vận nước khó khăn và thử thách đó, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bình tĩnh, sáng suốt, đề ra đường lối đúng đắn, sáng tạo đưa cách mạng Việt Nam vượt qua gềnh thác tiến lên. Nạn “giặc đói”, “giặc dốt” và “giặc ngoại xâm”, đặt vận mệnh của dân tộc đứng trước nguy cơ “ngàn cân treo sợi tóc”. Ngày 3-9-1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ Lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách của Chính quyền Cách mạng nhằm đẩy mạnh tăng gia sản xuất, chống nạn đói, chống nạn mù chữ, thực hiện tổng tuyển cử tự do, bãi bỏ các thứ thuế vô lý, thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, đoàn kết lương giáo để diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm để cứu nguy dân tộc.

Ngày 13-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh về dự lễ kỷ niệm Lý Bát Đế tại Đình Bảng, Từ Sơn. Người thắp hương và kính cẩn trước bàn thờ các vua nhà Lý, ân cần thăm hỏi và động viên nhân dân tích cực tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, ra sức đấu tranh diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm. Khi tiếp xúc với nhân dân, Bác nói:

- Thưa các cụ và đồng bào, một năm làng ta có mấy lần giỗ các vua nhà Lý?

- Thưa cụ Chủ tịch, một năm làng chúng tôi có chín lần giỗ, kể cả giỗ bà Lý Chiêu Hoàng, mỗi lần giỗ phải thịt một con trâu ạ!

- Như vậy làng ta phải thịt chín con trâu một năm. Một trăm làng như làng Đình Bảng thì một năm phải thịt mất 900 con trâu, làm như thế sẽ thiếu trâu để cày bừa. Ta phải “lễ vân, lễ vân bạch ngọc vân hồ tai. Nhạc vân, nhạc vân trung cổ vân hồ tai!”. Nghĩa là đi lễ cốt ở lòng thành, cứ gì có mâm bạch ngọc mới là quý. Khi lễ lòng ta tưởng như có nhạc, đâu cần bên chiêng bên trống mới là có nhạc.

Thưa các cụ và đồng bào!

Hôm nay, thay mặt Chính phủ, tôi về dự lễ tưởng niệm các vua nhà Lý và thăm đồng bào xã nhà…

Đồng bào ta ai cũng đều thấy hiện giờ nước nhà đang còn có nhiều khó khăn. Đình Bảng cần ra sức phát huy truyền thống cách mạng, hăng hái tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, tích cực diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm.

Ngày 25-11-1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Kháng chiến, kiến quốc” nêu rõ nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta lúc này là “phải củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân”[3]. Bản chỉ thị nêu rõ, xây dựng chế độ mới phải gắn liền với bảo vệ chế độ mới và ngược lại, bảo vệ chế độ mới phải dựa trên cơ sở xây dựng chế độ mới, điều đó mang tính quy luật. Nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược kháng chiến và kiến quốc, Đảng ta đã phát động phong trào quần chúng tăng gia sản xuất, chống đói, phong trào chống nạn mù chữ. Sau khi thực dân Pháp đánh chiếm Nam Bộ, Đảng ta phát động toàn dân kháng chiến ở miền Nam và đồng bào cả nước ủng hộ đồng bào miền Nam kháng chiến.

Thực hiện chỉ thị “kháng chiến kiến quốc” của Đảng, ủy ban cách mạng lâm thời và mặt trận Việt Minh Từ Sơn đã mở cuộc vận động chính trị sâu rộng trong nhân dân, tuyên truyền cho quần chúng hiểu rõ bản chất của chế độ dân chủ cộng hòa, chính sách của chính quyền mới và trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân trước yêu cầu của cách mạng. Qua đó đã khơi dậy tinh thần yêu nước, động viên mọi người tham gia các phong trào cách mạng do chính quyền phát động.

Nhiệm vụ trước mắt, cấp bách ngay sau ngày Cách mạng tháng Tám là diệt giặc đói, giặc dốt, xây dựng đời sống mới. Phong trào văn hóa, văn nghệ, thể thao sôi nổi, nhất là trong những ngày hội truyền thống, góp phần làm cho đời sống tinh thần của nhân dân thêm tươi vui lành mạnh.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, của Bác Hồ, hàng trăm thanh niên Từ Sơn tham gia Vệ Quốc đoàn đi Nam tiến, chống thực dân Pháp, bảo vệ Nam Bộ thành đồng Tổ quốc.

Từ ngày 17 đến ngày 24-9-1945, tỉnh Bắc Ninh mở cuộc vận động “tuần lễ vàng”, xây dựng “quỹ độc lập”. Nhân dân Từ Sơn đã tự nguyện đóng góp 105 lạng vàng và nhiều bạc vào “quỹ độc lập”, nhiều người đã tự tháo hoa tai, vòng vàng, dây chuyền, xà tích, kể cả nhẫn cưới để ủng hộ “quỹ độc lập”. Xã Đình Bảng đã góp được 35 lạng vàng, 20kg bạc, là xã có số lượng quyên góp lớn nhất huyện Từ Sơn. Ở Cẩm Giang có nhiều chị em đứng trước bàn thờ Tổ quốc tự tháo hoa tai, nhẫn vàng ủng hộ.

Trong bài viết Sẻ cơm nhường áo, trên báo Cứu quốc ngày 28-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào cả nước chống đói. Người đề xuất: “Lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước, và tôi xin thực hành trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn ba bữa, đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo”[4].

Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ trương đường lối của Đảng và Chính phủ, Đảng bộ và nhân dân Từ Sơn đã giành được những kết quả đáng khích lệ.

Cuộc vận động cứu đói cũng được chính quyền, mặt trận và các đoàn thể cứu quốc các xã hết sức coi trọng. Ban cứu tế của huyện được thành lập và có nhiều hoạt động thiết thực, hiệu quả trong cuộc vận động “nhường cơm xẻ áo” lạc quyên cứu đói. Chính quyền địa phương cùng với các đoàn thể quần chúng tổ chức vận động lạc quyên: hũ gạo tiết kiệm, ngày đồng tâm với tinh thần “lá lành đùm lá rách”. Noi giương Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Từ Sơn thực hiện 10 ngày nhịn 1 bữa, mỗi bữa 1 nắm gạo để giành lương thực cứu trợ những người quá khó khăn. Cùng với việc vận động nhân dân tiết kiệm, tương trợ cứu đói, chính quyền địa phương còn vận động nhân dân thực hiện lệnh cấm sử dụng lãng phí lương thực, thực phẩm vào nấu rượu, nghiêm trị nạn đầu cơ tích trữ lương thực, nhằm dành lương thực cho công tác cứu đói. Nhiều gia đình trong huyện có “hũ gạo tiết kiệm”, thu được hàng tấn gạo cứu đói.

Thực hiện lời kêu gọi chống giặc đói của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính quyền, mặt trận Việt Minh cùng các đoàn thể quần chúng cứu quốc Từ Sơn mở cuộc vận động tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm với khẩu hiệu: “Không bỏ ruộng hoang”, “Tấc đất tấc vàng” và cuộc vận động “người người tăng gia, nhà nhà tăng gia” nhanh chóng trở thành một phong trào rộng lớn. Nông dân các địa phương tiến hành khai hoang, phục hóa, trồng màu được hàng trăm mẫu ruộng, mẫu bãi. Tháng 10-1945, xã Đình Bảng đã tổ chức nông khu Đền Rồng và sau đó phát triển thêm nông khu Ao Sen, Trầm, Cao Lâm. Đây là hình thức sản xuất tập thể đầu tiên của nông dân Đình Bảng, thực hiện chủ trương tích cực tăng gia sản xuất lương thực của Đảng, của Chính phủ và của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng, cải thiện đời sống nông dân, Đảng bộ và chính quyền Từ Sơn đã chỉ đạo các làng, xã trong toàn huyện tiến hành chia ruộng đất công bao gồm ruộng phe, ruộng giáp, ruộng tư văn, ruộng hậu xóm, hậu làng, đất bãi cho nông dân thiếu ruộng. Hàng nghìn mẫu ruộng đất đã được chia cho nông dân cả nam và nữ, mọi người phấn khởi được cách mạng đem lại ruộng đất, ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, nạn thiếu đói từng bước bị đẩy lùi, người dân càng thêm tin tưởng vào Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh, vào chế độ mới.

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và chính phủ về việc tổ chức tổng tuyển cử, huyện ủy Từ Sơn chỉ đạo cho các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Việt Minh địa phương tổ chức tuyên truyền, cổ động rộng khắp trong nhân dân chuẩn bị cho cuộc vận động chính trị rộng lớn, có tác dụng giáo dục nâng cao lòng yêu nước và ý thức làm chủ của nhân dân.

Ngày 6-1-1946, hơn 98% cử tri Từ Sơn đã đến các điểm bỏ phiếu để thực hiện quyền và nghĩa vụ thiêng liêng của mình, bầu đại biểu Quốc hội khóa I. Đó là một ngày hội lớn của nhân dân Từ Sơn, khắp các thôn làng rực rỡ cờ hoa, khẩu hiệu, lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân trong huyện được hưởng quyền lựa chọn người vào cơ quan cao nhất của nhà nước. Mọi người từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt trai gái, giàu nghèo, tôn giáo, dân tộc, đều có quyền đi bỏ phiếu. Thắng lợi của tổng tuyển cử đã góp phần thiết thực vào cuộc đấu tranh bảo vệ và củng cố chính quyền cách mạng của nhân dân Từ Sơn.

Sau thắng lợi của cuộc bầu cử Quốc hội khóa I, xã Đình Bảng được Trung ương chọn làm địa điểm dự bị họp Quốc hội. Vì vậy, đầu tháng 2-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh về ngôi đình lành Đình Bảng, địa điểm dự bị để họp Quốc hội. Đông đảo cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân Đình Bảng tưng bừng, phấn khởi, vinh dự được đón Bác Hồ lần thứ hai về thăm và biểu thị sự quyết tâm ủng hộ, giúp đỡ chính phủ.

Sau bầu cử Quốc hội, thực hiện chủ trương của Chính phủ về việc điều chỉnh lại đơn vị hành chính, huyện Từ Sơn được thành lập trên cơ sở địa giới hành chính của phủ Từ Sơn. Ngày 26-4-1946, nhân dân Từ Sơn tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh và xã theo Sắc lệnh 63 của Chính phủ. Ủy ban Hành chính huyện do đồng chí Phạm Huy Kha làm chủ tịch. Chính quyền cấp xã cũng được điều chỉnh lại, xóa bỏ cấp tổng, phủ, một số làng xã hợp thành xã mới.

Kết quả bầu cử hội đồng nhân dân các cấp, chính quyền từ huyện đến xã được củng cố, hội đồng nhân dân đã bầu được những đảng viên, quần chúng cách mạng tiêu biểu trong Mặt trận Việt Minh, các đoàn thể cứu quốc vào ủy ban hành chính. Từ giữa năm 1946, bên cạnh Ủy ban hành chính, ở huyện và các xã còn thành lập Ủy ban Kháng chiến để đảm nhận trọng trách lãnh đạo các mặt công tác kháng chiến trong phạm vi quản lý của mình. Ủy ban kháng chiến còn đảm nhận công việc bảo quản, giữ gìn các máy móc, giấy tờ, vũ khí của nhà nước giao cho địa phương cất giữ. Bên cạnh đó, ban bảo vệ chính quyền huyện và xã cũng được thành lập. Đến tháng 10-1946, huyện Từ Sơn có 5.265 người tham gia Mặt trận Việt Minh[5].

Song song với diệt giặc đói, chính quyền, Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể còn đẩy mạnh cuộc vận động diệt giặc dốt, bài trừ các tệ nạn xã hội, xây dựng đời sống mới. Chính sách ngu dân dưới chế độ thống trị của thực dân Pháp đã để lại hậu quả nghiêm trọng, trên 90% nhân dân ta bị mù chữ. Sau ngày cách mạng thành công, Nha bình dân học vụ được thành lập (9-1945), Ban bình dân học vụ huyện và các xã được thành lập. Phong trào học chữ quốc ngữ sôi nổi ở mọi xóm làng, đình, đền, chùa, nhà thờ và những nhà dân rộng rãi ở các làng quê đều trở thành lớp bình dân học vụ. Khẩu hiệu động viên khích lệ phong trào bình dân học vụ được kẻ ở khắp mọi nơi. Các cổng chính vào làng, vào chợ đều được chắn ngang, bất kỳ ai đi qua cũng được hỏi chữ, ai trả lời được thì hiên ngang, đàng hoàng qua cổng chính, ai không trả lời được thì phải chui qua rào mà vào.

Phong trào bình dân học vụ sinh động, sôi nổi liên tục từ sau ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã dạy cho hàng vạn người dân Từ Sơn biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ.

Cuộc vận động xây dựng đời sống mới thu được kết quả tốt, nhiều làng xã như: Phù Lưu, Đình Bảng, Nội Trì, Nghĩa Khê, Dương Lôi, Du Lâm… có nền nếp, tổng vệ sinh đường làng, ngõ xóm theo định kỳ, làm cho quê hương khang trang, sạch đẹp… Các hủ tục trong ma chay, cưới xin, tệ nạn cỗ chay, cỗ thờ, tế lễ ở đình làng bị xóa bỏ.

Công tác xây dựng Đảng, củng cố chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể quần chúng được coi trọng. Tháng 10-1945, đồng chí Lê Khánh phụ trách công tác đảng Từ Sơn được điều động về tỉnh Ninh Bình, đồng chí Trần Lê Nhân (tức Tuyết), được cử làm Bí thư, sau đó là các đồng chí Nguyễn Việt Dũng và đồng chí Lê Chi làm Bí thư huyện ủy Từ Sơn đến trước tháng 8-1946.

Đến tháng 7-1946, huyện Từ Sơn có gần 30 đảng viên một số chi bộ. Chi bộ Đình Bảng có 17 đảng viên, chi bộ cơ quan huyện có 9 đảng viên, chi bộ Trang Liệt có 3 đảng viên và một số đảng viên độc lập.

Tháng 8-1946, Từ Sơn triệu tập Đại hội với sự tham gia của 41 đồng chí (có cả đảng viên dự bị). Đại hội bầu 7 đồng chí vào Ban Huyện ủy do đồng chí Nguyễn Ly làm Bí thư, sau đó đồng chí Bạch Ngọc Phách (tức Hùng) làm Bí thư. Đây là Đại hội đầu tiên của Đảng bộ huyện Từ Sơn.

Cuối năm 1946, Huyện ủy chỉ đạo các xã lập tổ trung kiên bao gồm những quần chúng tích cực, hăng hái công tác và tổ chức cho anh chị em học tập chính trị nhằm nâng cao phẩm chất cách mạng, giác ngộ giai cấp, giác ngộ về Đảng, nên công tác phát triển đảng của Đảng bộ Từ Sơn đạt kết quả tốt.

Tháng 10-1946, huyện Từ Sơn thành lập Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt), thu hút tầng lớp trí thức, thân hào, thân sỹ vào Mặt trận, khối đại đoàn kết toàn dân được mở rộng. Hội văn hóa cứu quốc huyện Từ Sơn cũng được thành lập tháng 10-1946. Các đoàn thể cứu quốc như thanh niên, phụ nữ, nông dân, thiếu niên tiếp tục phát triển về số lượng, nâng cao về chất lượng. Thông qua các tổ chức chính trị của quần chúng để tuyển chọn các phần tử tiên tiến, đến trước ngày cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, tất cả các xã trong huyện Từ Sơn đều đã có trung đội tự vệ vũ trang, riêng xã Đình Bảng có ba trung đội tự vệ mạnh được trang bị hàng chục khẩu súng các loại.

Tháng 10-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Đình Bảng lần thứ ba. Người thay mặt Chính phủ cảm ơn các cụ và nhân dân Đình Bảng đã giúp Chính phủ chuẩn bị điều kiện để họp Quốc hội, song vì địch gây trở ngại nên Quốc hội không họp được ở Đình Bảng, giờ đây các cụ và dân làng cùng nhau chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu giữ nước, giữ làng. Bác đến thăm cụ Nguyễn Phụ Doãn (tức cụ Cửu Hai) là người cao tuổi nhất làng.

Tháng 11-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh về làng Phù Lưu, Người đến thăm hỏi và trò chuyện với cụ Chắt Minh 82 tuổi. Bác nói “Tôi sang Pháp đã hơn 4 tháng mới về. Người Pháp đối với ta rất thân thiện. Giờ đây, Chính phủ và nhân dân phải đồng tâm nhất trí. Bất kì già trẻ, gái trai, bất kì sĩ, nông, công, thương, toàn thể quốc dân phải ra sức làm việc. Tôi mong các cụ động viên con cháu mình hăng hái tăng gia sản xuất, ủng hộ Chính phủ”[6].

Cuối tháng 11, đầu tháng 12-1946, quân đội Pháp liên tiếp gây hấn ở Hải Phòng, Lạng Sơn, Hà Nội. Chính phủ ta, đứng đấu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhân nhượng, nhưng chúng ta càng nhân nhượng, địch càng lấn tới. Ngày 17 và ngày 18-12-1946, chúng trắng trợn gây ra hàng loạt vụ khiêu khích ở Hà Nội, như  bắn vào trụ sở tự vệ ta, gây ra vụ thảm sát dã man ở hai phố Yên Ninh, Hàng Bún, chiếm đóng Bộ Giao thông công chính, Bộ Tài chính, gửi tối hậu thư cho Chính phủ ta đòi tước vũ khí của tự vệ, đòi chiếm trụ sở công an Hà Nội. Chúng khước từ đề nghị tiếp xúc, thương lượng do ta đưa ra.

Để giữ vững quyền độc lập dân tộc, chủ quyền của Tổ quốc, Đảng, Chính phủ ta quyết định phát động quân và dân cả nước tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Theo tiếng gọi thiêng liêng ấy, Đảng bộ và nhân dân Từ Sơn cùng với quân, dân cả nước bước vào cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Qua 16 tháng (9-1945 - 12-1946) giữ vững chính quyền dân chủ nhân dân và chuẩn bị lực lượng kháng chiến, Từ Sơn đã trưởng thành về mọi mặt. Chính quyền dân chủ nhân dân ở cấp huyện, cấp xã được củng cố, Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể chính trị quần chúng phát triển cả về số lượng và chất lượng, lực lượng tự vệ vũ trang được xây dựng ở cấp xã, cấp huyện, thực hiện chức năng trấn áp bọn phản cách mạng, bảo vệ trật tự trị an, bảo vệ cuộc sống yên bình của nhân dân, được nhân dân tin tưởng, quý mến và yêu thương.

II. ĐẢNG BỘ HUYỆN TỪ SƠN LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP LẤN CHIẾM VÀ CHUẨN BỊ KHÁNG CHIẾN (từ 20-12-1946 đến 13-7-1949)

Trong hai ngày 18 và 19-12-1946, tại làng Vạn Phúc (Hà Đông), Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị mở rộng do Chủ tịch Hồ Chủ tịch chủ tọa, Hội nghị quyết định tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trên quy mô toàn quốc. Ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Ngày 22-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến vạch ra đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược là giành độc lập thống nhất, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh, trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa. Đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện của Đảng được thể hiện sinh động bằng khẩu hiện hành động “toàn dân kháng chiến”, “mỗi phố là một mặt trận”, “mỗi làng là một pháo đài”.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ, nhân dân Từ Sơn cùng với nhân dân cả nước đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu nước, cứu nhà.

Trận đánh mở màn (23-12-1946) của quân, dân Từ Sơn thắng lợi giòn giã, tiêu diệt 50 lính viễn chinh Pháp tại Yên Viên, Đình Bảng, Cẩm Giang khi chúng tiến quân từ Hà Nội lên giải vây cho quân của chúng bị ta bao vây ở thị xã Bắc Ninh.

Ngày 31-12-1946, quân Pháp rút chạy từ Đáp Cầu- thị xã Bắc Ninh theo quốc lộ 1A về Hà Nội, khi đến Dốc Lã bị quân ta chặn đánh, tiêu diệt 60 tên Pháp.

Thi hành chủ trương của Trung ương, ngày 6-1-1947, Ủy ban kháng chiến tỉnh Bắc Ninh đã phát mệnh lệnh đầu tiên về công tác phá hoại nêu rõ: Cắt đường giao thông quốc lộ số 5, đường xe lửa (Hà Nội-Hải Phòng) qua địa phận Gia Lâm. Cắt đường giao thông quốc lộ số 1, đường xe lửa đoạn Yên Viên, Đáp Cầu, làm kè ngăn sông Đuống, sông Cầu, sông Ngũ Huyện Khê.

Khi được viện binh từ Pháp sang (tháng 3-1947), địch tiến hành một số trận càn lớn hòng biến vùng nông thôn quanh ngoại thành Hà Nội thành vùng chiếm đóng, hậu phương của chúng. Sáng ngày 5-2 (Đinh Hợi) tức 27-3-1947, địch xuất phát từ Dốc Vân, chia thành hai hướng, một hướng theo quốc lộ số 3, một hướng theo bờ đê Mai Lâm, Đông Hội-Xuân Canh tạo thế gọng kìm tiến công tiêu diệt du kích khu độc lập và triệt hạ pháo đài ta ở Xuân Canh. Quân địch bị du kích khu độc lập chặn đánh quyết liệt ở Mai Hiên, Đông Hội, Tiên Hội, Xuân Canh, Đông Ngàn. Trong trận càn này địch bị tiêu diệt và thương vong trên 10 tên, ta bị địch giết hại và bị thương trên 60 người, trong đó có 37 người dân, số còn lại là tự vệ chiến đấu và bộ đội.

Tháng 3-1947, du kích khu Tiền Phong bao gồm Yên Viên, Yên Thường, Vân, Trùng Quán, Đình Xuyên… phối hợp với đội cảm tử quân của tỉnh Bắc Ninh, với đơn vị bộ binh, công binh của Trung đoàn 21 Vệ quốc đoàn đánh cầu Đuống, cắt đường giao thông số 1, số 3 tại Yên Viên, nhưng do kỹ thuật thả bè trôi sông thiếu chuẩn xác nên bom không nổ, cầu Đuống không bị sập, trận đánh không thành công.

Đến tháng 3-1947, nhiều đoạn trên quốc lộ 1A và đường xe lửa thuộc địa phận Từ Sơn đã đào thành hố chữ chi sâu từ 1m đến 1,5m, rộng 1,2m, tà vẹt và đường ray trên đường xe lửa Yên Viên-Từ Sơn bị bóc. Trong đó có một số đoạn đường bị đào sâu, như ụ dốc Lã trên đường quốc lộ 1A và trên đường sắt được đắp cao to như quả núi, ụ chùa Di trên đường số 2 được đắp rất kiên cố. Các cột điện cao thế từ Yên Viên đến phố Từ Sơn đều bị ta phá, dây đồng tải điện thu hồi vận chuyển lên vùng tự do. Các nhà gác ở phố Đuống, Yên Viên, Từ Sơn, làng Phù Lưu, Đình Bảng đều thực hiện phá dỡ theo lệnh tiêu thổ kháng chiến.

Thực hiện chủ trương xây dựng làng chiến đấu, Huyện ủy Từ Sơn chọn các làng Đình Bảng, Hội Phụ, Lại Đà làm điển hình. Xung quanh làng được rào kín bởi lũy tre, chỉ ra vào qua các cổng làng có tự vệ du kích canh gác. Trong các xóm ngõ có giao thông hào và các ụ chiến đấu liên hoàn. Các nhà cổng kín, tường cao nhưng đều trổ cửa ngách thông nhà này với nhà khác. Mô hình làng chiến đấu hết sức thuận lợi cho lối đánh du kích.

Ngày 24-3-1947 (đúng vào ngày giỗ Lý Thái Tổ), quân Pháp dùng sáu tiểu đoàn (khoảng 2.000 lính) có máy bay, trọng pháo yểm trợ tiến đánh vào làng Đình Bảng theo hai hướng: một hướng từ Gia Lâm, Cầu Đuống, Xuân Dục qua Bính Hạ; một hướng theo đê sông Đuống lên Phù Ninh rồi xuyên chéo cánh đồng. Cuộc chiến giữa ta và địch diễn ra từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều. Lực lượng ta chỉ có ba trung đội du kích của làng Đình Bảng với vũ khí gồm 30 khẩu súng Phan Đình Phùng, một số lựu đạn Phan Đình Phùng, hai khẩu súng bắn chim, một khẩu súng trung liên. Địch lợi dụng quân đông, vũ khí hiện đại, máy bay yểm trợ tiến công ồ ạt vào làng. Ta vừa thông thạo địa bàn, lũy cao hào sâu, có giao thông hào, có ụ chiến đấu, được quần chúng nhân dân ủng hộ, đã đánh bại năm đợt tấn công vào làng của giặc. Khi rút lui, do hoảng loạn và trời nhá nhem tối nên toán rút trước bắn nhầm vào toán rút sau ở hướng Phù Ninh.

Trong trận chiến đấu này, với lối đánh sáng tạo, đánh chính diện, đánh cạnh sườn, với tinh thần dũng cảm quần nhau với địch giành giật từng đoạn hào, từng ngõ xóm, du kích Đình Bảng đã tiêu diệt 57 tên địch (chưa kể số bị chết khi chúng rút lui bắn lẫn nhau), ta thu 1 khẩu súng côn bát, 12 lựu đạn, 31 mũ sắt. Về phía ta bị hy sinh 17 chiến sỹ du kích, 49 người dân.

Đến tháng 4-1947, thực dân Pháp đã chiếm đóng hầu hết các địa phương thuộc huyện Gia Lâm, Văn Giang, Gia Bình, Lang Tài, bên bờ nam sông Đuống. Bờ bắc sông Đuống, khu vực cầu Đuống gồm phố Đuống, phố Yên Viên, Vân, Yên Thường, Trùng Quán, Mai Hiên, Du Lâm, Đình Xuyên, Lại Đà, Hội Phụ, Tiên Hội, Xuân Canh, Đông Ngàn trở thành vùng tranh chấp hàng ngày, hàng giờ quyết liệt giữa ta và địch. Nhân dân, nhất là cụ già, trẻ em được tản cư vào khu vực nội địa của huyện và các huyện Yên Phong, Tiên Du, có một số sang Hiệp Hòa (Bắc Giang).

Theo chỉ thị của trên, mùa hè năm 1947, toàn bộ các đơn vị bộ đội Vệ quốc đoàn đang hoạt động tại khu Tiền Phong rút khỏi địa phương để chuẩn bị cho đánh địch. Hoạt động chủ yếu ở địa phương lực lượng du kích làng, xã, theo phương châm đánh nhỏ, chắc thắng; thôn Lã Côi trở thành địa đầu, nơi bám trụ chống địch lấn chiếm. Mấy lần địch từ cầu Đuống tiến quân đánh phá làng Đình Bảng bị du kích chặn đánh tại làng Lã Côi, dốc Lã.

Tháng 3-1947, Ủy ban hành chính và Ủy ban kháng chiến huyện Từ Sơn và các xã sáp nhập thành Ủy ban kháng chiến hành chính. Ủy ban kháng chiến hành chính huyện do đồng chí Nguyễn Kim Quỹ làm chủ tịch. Huyện đã mở lớp huấn luyện với thời gian 10 ngày tại làng Đình Bản để bồi dưỡng chức năng, nhiệm vụ và phương pháp làm việc cho các đại biểu hội đồng nhân dân và ủy ban cấp xã. Huyện ủy, Ủy ban huyện thường xuyên chỉ đạo, động viên nhân dân ra sức phát triển sản xuất.

Về nông nghiệp: Nông dân được chia ruộng công, công thổ, tạm giao ruộng đất của địa chủ, Việt gian phản động nên hăng hái thi đua tăng gia sản xuất. Các năm 1947-1948, diện tích, sản lượng nông nghiệp đều tăng khá. Phong trào dân quân, tự vệ trồng cấy lúa, màu để tự cấp, tự túc được phát động và thực hiện ở hầu hết các xã. Mô hình Nông khu ở Đình Bảng phát triển sản xuất đạt kết quả tốt. Các đoàn thể cứu quốc như thanh niên, phụ nữ, nông dân… cũng tổ chức cấy cày để gây quỹ và góp phần nuôi quân ăn no đánh thắng. Phong trào nông dân bán thóc nuôi quân, hũ gạo tiết kiệm, mùa đông may áo binh sỹ, chăm sóc thương binh được mọi tầng lớp nhân dân hưởng ứng.

Về nghề thủ công, mặc dù chiến tranh, song với tinh thần quyết tâm vượt khó, các nghề rèn (Đa Hội), mây tre (Trang Liệt, Phù Lưu), gỗ (Phù Khê, Hương Mạc), thuộc da (Mai Động), dệt (Phù Ninh, Tam Sơn, Tiêu, Hồi Quan)… vẫn được duy trì, góp phần thực hiện nhiệm vụ tự cung tự cấp trong kháng chiến.

Song song với nhiệm vụ phát triển sản xuất, phong trào bình dân học vụ được duy trì, Trường trung học tư thục Hoàng Hữu Nam được thành lập thu hút hàng trăm học sinh. Dưới sự chỉ đạo của Hội văn hóa cứu quốc huyện, phong trào ca hát, các đội văn hóa, văn nghệ của huyện, của cơ sở hoạt động sôi nổi, đều khắp, các buổi biểu diễn (kịch nói, kịch thơ, tuồng, chèo) ở sân khấu ngoài trời, được đông đảo nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng. Hầu hết các xã đều có đội bóng chuyền, các lò vật cổ truyền như Tam Lư, Đình Bảng, Đồng Kỵ… được phục hồi. Hội hè, đình đám diễn ra sôi nổi đúng với truyền thống văn hóa của đất Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc.

Tháng 10-1947, Hội nghị Đảng bộ huyện Từ Sơn diễn ra tại đình làng Lỗ Khê, xã Liên Hà (nay thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội)[7]. Hội nghị bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm đồng chí Hoàng Tinh, Mạnh Can, Nguyễn Thị Đồng, Tề (Tuyên), Quỹ, Quyết, Thận, do đồng chí Hoàng Tinh làm Bí thư Huyện ủy.

Nhận xét về công tác phát triển đảng của huyện Từ Sơn, báo cáo tháng 2-1948 của Ban Chấp hành tỉnh Đảng bộ Bắc Ninh viết: “Từ Sơn phát triển mạnh nhất vì huyện có kế hoạch phát triển rõ ràng cho các chi bộ, phân công cho từng đồng chí để phát triển. Tăng về công nhân, giảm về tiểu tư sản và nông dân. Phụ nữ phát triển chậm và chưa được chú trọng. Từ Sơn có chi bộ Từ Sơn (chi bộ cơ quan huyện ủy) và chi bộ Trang Hạ là cơ sở khá nhất. Đến tháng 2-1948, Đảng bộ Từ Sơn có 645 đảng viên, gồm 335 đảng viên chính thức, 310 đảng viên dự bị. Huyện Từ Sơn là huyện dẫn đầu toàn tỉnh về tốc độ phát triển đảng”.

Bị thất bại nặng nề trong chiến dịch Thu Đông năm 1947 tại Việt Bắc, quân Pháp ra sức bình định vùng chiếm đóng ở đồng bằng Bắc Bộ, vùng phía nam Bắc Ninh gồm các huyện Gia Lâm, Văn Giang, Thuận Thành, Gia Bình, Lang Tài, chúng tăng cường xây đồn bốt, tổ chức các ban hội tề. Một số xã ở bờ bắc sông Đuống thường xuyên bị địch từ bên bờ nam sông Đuống sang càn quét, quấy phá, vơ vét tài sản (thóc lúa, trâu bò, lợn gà…) của nhân dân.

Thua trận trong chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, trên đường tháo lui từ Việt Bắc (Thái Nguyên) về Hà Nội qua Yên Phong, Từ Sơn, quân Pháp càn quét vào một số làng thuộc huyện Từ Sơn, gây tội ác với dân ta.

Ngày 6-12-1947, địch huy động lực lượng lớn từ cầu Đuống kéo quân càn quét vào làng Phù Lưu, Đình Bảng. Bộ đội và du kích Đình Bảng, Phù Lưu đánh địch quyết liệt từ 8 giờ sáng đến 7 giờ tối, chúng không vào được làng và bị tiêu diệt 28 tên.

Để chỉ đạo sâu sát cơ sở, năm 1947, huyện Từ Sơn chia thành năm khu:

- Khu Độc Lập gồm: vùng Cói, Lại Đà và các làng giáp cầu Đuống.

- Khu Tiền Phong gồm: Yên Viên, Lã, Yên Thường.

- Khu Quyết Chiến gồm: Phù Ninh, Đình Xuyên, Đình Bảng, Phù Chẩn, Phù Lưu, Dương Lôi, Yên Lã.

- Khu Dân Chủ gồm: Ngũ Hà, Hà Vĩ, Thiết Úng, Vân Điềm, Me Mấc, Phù Khê, Kim Bảng, Đồng Kỵ, Trang Liệt.

- Khu Tự Do gồm: Đông Thọ, Văn Môn, Tam Sơn, Đồng Nguyên.

Mỗi khu do một đồng chí huyện ủy viên phụ trách.

Do địch thường xuyên càn quét, khủng bố, ép nhân dân các làng thuộc khu Độc Lập, Tiền Phong lập hội tề. Huyện ủy chủ trương võ trang tuyên truyền chống chiến tranh tâm lý, trừ gian, chống địch lập hội tề ở các làng, xã xung quanh cầu Đuống.

Đại đội bộ đội huyện Từ Sơn (lập tháng 10-1947) phân tán về cùng du kích các xã trong khu Độc Lập và Tiền Phong trừ gian, chống gián điệp, biệt kích, chống lập tề, tiêu diệt những toán quân địch đi hoạt động lẻ tẻ. Huyện đã tổ chức cho bộ đội huyện và du kích một số xã sang Ngọc Thụy (Gia Lâm) rèn luyện thử thách trong chiến đấu.

Thực hiện chủ trương trên, bộ đội và du kích các xã tiêu diệt một số tên phản động, ngăn cản được kế hoạch lập hội tề của địch, cơ sở kháng chiến của nhiều làng, xã được giữ vững và phát triển. Ngày 31-5-1948, bộ đội huyện Từ Sơn đánh mìn trên đường xe lửa tại Cầu Chui (Gia Lâm) lật đổ đoàn tàu chở hàng quân sự của địch gồm đầu tàu và tám toa xe. Với thắng lợi ấy, đồng chí Lê Hồng Khang, đại đội trưởng bộ đội Từ Sơn được tặng thưởng Huân chương chiến sỹ hạng nhất và liệt sỹ Đào Công Hằng được truy tặng Huân chương Chiến sỹ hạng ba.

Đúng 9 giờ sáng ngày 29-6-1948, Đại đội 248 (bộ đội chủ lực) phối hợp với du kích huyện Từ Sơn phục kích đánh địch tại quốc lộ số 2 (đoạn giữa làng Du Lâm và Bi Thôn). Khi bốn xe ô tô và một trung đội địch lọt vào trận địa mai phục, địa lôi, mìn nổ, lập tức bộ đội du kích ta tung lựu đạn vào đội ngũ địch, tiêu diệt tại chỗ hai tiểu đội, phá hủy hai xe địch.

Để tăng cường sức mạnh chống địch càn quét, Huyện ủy Từ Sơn đẩy mạnh xây dựng lực lượng bộ đội địa phương và du kích xã. Hàng chục xã đã có hai trung đội du kích chiến đấu. Tháng 8-1948, Từ Sơn đã có hai tổ sửa chữa vũ khí, cụm chiến đấu liên hoàn khu Ngũ Hà đã xây dựng xong.

Thời kỳ này, địch tăng cường các cuộc càn quét vào địa bàn Từ Sơn. Tháng 7, 8, 9-1948, địch càn quét nhiều nơi trên địa bàn huyện Từ Sơn. Ngày 24-8-1948, địch vây càn, bắt người, đốt nhà, cướp của các làng xã Lã Côi, Đỗ Xá, Trịnh Nguyễn, Đa Hội, Lại Hoàng, Liên Đàm. Ngày 14-9-1948, máy bay địch ném bom làng Đồng Kỵ. Tháng 9, 10-1948, địch từ các đồn bốt ở bờ nam sông Đuống vượt sang càn quét làng Phù Đổng (Tiên Du), Phù Chẩn (Từ Sơn) nhiều lần.

Nhằm triển khai Nghị quyết Đại hội lần thứ II Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh (họp tại đình làng Chóa, xã Dũng Liệt, huyện Yên Phong tháng 6-1948) vào điều kiện cụ thể của địa phương và bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, đầu tháng 8-1948, tại làng Quan Đình, xã Văn Môn, Hội nghị Đảng bộ huyện Từ Sơn đề ra nhiệm vụ tiếp tục đẩy mạnh cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện lên một bước mới, ra sức phát triển đảng, các đoàn thể chính trị quần chúng, tích cực xây dựng lực lượng du kích, bộ đội địa phương huyện và xây dựng làng kháng chiến. Về công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ Từ Sơn có 751 đảng viên gồm 440 chính thức, 311 dự bị, sinh hoạt ở 37 chi bộ, bao gồm 30 chi bộ nông thôn, ba chi bộ cơ quan, một chi bộ xí nghiệp. Hội nghị bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm các đồng chí Hoàng Tinh, Đỗ Văn, Dương Minh Đức, Nguyễn Kim Quỹ, Lê Thanh Bình, Nguyễn Văn Pho, Phúc[8], đồng chí Hoàng Tinh làm Bí thư Huyện ủy[9].

Ngày 30-1-1949 (tức mùng 2 tết năm Kỷ Sửu), quân Pháp mở cuộc càn quét với quy mô lớn sang hai huyện Tiên Du và Từ Sơn nhằm phá kinh tế ta, đỡ đòn cho Mặt trận Đông Bắc, thăm dò và tiêu diệt bộ đội chủ lực. Chúng chia làm ba mũi cùng một lúc tiến vào lãnh thổ Từ Sơn, Tiên Du. Cánh quân thứ nhất, thứ hai tiến vào lãnh thổ Tiên Du, cánh quân thứ ba gồm 600 quân chia làm hai mũi, từ cầu Đuống theo quốc lộ 1A, đến gần làng Đình Bảng tách ra làm hai, một bộ phận qua cánh đồng Trang Liệt, Cẩm Giang và một bộ phận vòng qua Đình Bảng, Phù Lưu. Cả hai bộ phận đều tiến về làng Đình Cả, xã Nội Duệ, huyện Tiên Du. Cánh quân thứ nhất, thứ hai của địch từ Hồ (Thuận Thành) sang cũng tiến về Đình Cả (Nội Duệ).

Trong trận càn này, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và du kích ta đánh cho địch thất điên bát đảo ở Đình Cả, Vân Khám, Văn Trung, Phật Tích, Hoài Thượng, Bất Lự (Tiên Du); Đình Bảng, Dốc Lã, Phù Lưu, Trang Liệt, Cẩm Giang (Từ Sơn), tiêu hao một phần sinh lực địch, tiêu biểu nhất là trận Lư-Vĩnh-Xuyên (Từ Sơn)[10].

Trên 300 quân địch từ Bất Lự (Hoàn Sơn, Tiên Du) đi tắt cánh đồng lên quốc lộ 1A đoạn thuộc Tam Lư-Vĩnh Kiều-Lễ Xuyên để rút về cầu Đuống. Đại đội 862 cùng du kích Từ Sơn dựa vào địa hình quốc lộ 1A và đường sắt bố trí chặn đánh địch. Vào 14 giờ 30 phút ngày 3-2-1949 (tức ngày 6-1 Kỷ Sửu), địch lọt vào trận đồ của ta, chờ địch cách 200m ta mới lệnh phát hỏa. Khẩu đại liên cùng bốn khẩu trung liên của ta đồng loạt bắn, địch chết và bị thương khoảng 80 tên, quân ta xung phong quần nhau với địch, thu một đại liên, một trung liên, một các bin; một tiểu đội địch giơ tay hàng; đội hình địch tan tác. Đại bác địch bắn chi viện nhưng lại dội trúng vào đội hình địch làm hàng chục tên chết và bị thương. Trên đường rút về cầu Đuống, địch tiếp tục bị du kích Đình Bảng, Lã Côi, Yên Viên chặn đánh làm chết 100 tên, bị thương 64 tên. Trận Lư-Vĩnh-Xuyên giành thắng lợi giòn giã, vang vọng còn đến hôm nay, như lời bài hát:

“Lư-Vĩnh-Xuyên nơi đây mồ chôn giặc Pháp!

Lư-Vĩnh-Xuyên đã trả hận thù cho bao đồng bào Bắc Ninh”[11].

Tháng 1-1949, Trung ương Đảng ra chỉ thị chỉ rõ “Động viên mọi lực lượng tinh thần, vật chất của toàn dân vào cuộc kháng chiến kiến quốc, giành kỳ được độc lập và dân chủ thực sự”[12]. Hội nghị Tỉnh ủy Bắc Ninh ngày 10-3-1949 nhận định: “Địch có thể mở rộng chiến tranh, càn quét tấn công các huyện bắc phần” và đề ra nhiệm vụ: tích cực xây dựng và củng cố lực lượng vũ trang, đẩy mạnh kháng chiến toàn diện, phát triển lên một bước mới. Huyện Từ Sơn tập trung sức củng cố đại đội địa phương huyện và các trung đội du kích tập trung xã vững mạnh về tổ chức, ý chí chiến đấu, trang bị vũ khí. Vận động các đoàn thể cứu quốc góp tiền gạo vào quỹ nuôi quân; giao cho mỗi ngành giới nhận đỡ đầu một tiểu đội du kích. Phong trào “hũ gạo nuôi quân”, “hũ gạo kháng chiến” có 90% các hộ trong huyện thực hiện. Hội Nông dân cứu quốc đã quyên góp được hàng chục nghìn đồng vào quỹ nuôi du kích.

Tiếp tục tổ chức quần chúng lên quốc lộ 1A, số 2, đường sắt thuộc địa phận Từ Sơn và đường 179, đê tả ngạn sông Đuống, đê Ngũ Huyện Khê đào hào, đắp ụ để ngăn cản bước tiến quân thù. Từ Sơn luôn nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu chống địch càn quét chiếm đóng với ý chí và quyết tâm cao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, bảo vệ quê hương, làng xóm và nhân dân ít bị tổn thất và thiệt hại nhất.

Cho đến giữa năm 1949, sau hơn hai năm kháng chiến kiến quốc gian khổ, quân và dân Từ Sơn đã giành được những thắng lợi to lớn trên mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội tạo cơ sở vững chắc để bước vào thời kỳ trực tiếp tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược để giải phóng quê hương.

III. ĐẢNG BỘ HUYỆN TỪ SƠN LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN TRỰC TIẾP THAM GIA KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (từ 13-7-1949 đến 20-10-1954)

Sang năm 1949, cuộc kháng chiến cúa nhân dân ta bước vào giai đoạn phát triển mới, từ thế phòng ngự chuẩn bị chuyển sang phản công quân Pháp. Lực lượng của ta ngày càng mạnh, địch ngày càng lún sâu vào thế bị động, lúng túng, buộc chúng phải thay đổi chiến lược từ “đánh nhanh, thắng nhanh”, sang “đánh lâu dài” và thực hiện chính sách “Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”.

Tháng 5-1949, Chính phủ Pháp cử tướng Rơve, Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp và một số nghị sĩ Quốc hội sang Đông Dương thị sát tình hình và vạch ra một kế hoạch mới mang tên Rơve, để đối phó với cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Nội dung cơ bản của kế hoạch Rơve là:

- Mở rộng vùng chiếm đóng ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ, phong tỏa biên giới Việt Trung.

- Tăng cường xây dựng quân ngụy, dùng quân đội ngụy làm nhiệm vụ chiếm đóng, tập trung lính Âu-Phi làm lực lượng cơ động tiến hành các càn quét lớn.

- Củng cố và đề cao ngụy quyền làm công cụ tiếp tục thực hiện chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”.

Được tăng viện quân viễn chinh và sự viện trợ của Mỹ, từ tháng 7-1949 đến tháng 5-1950, Pháp mở tám chiến dịch liên tiếp đánh chiếm vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ.

Thực thi kế hoạch Rơve, ngày 13-7-1949 quân Pháp mở cuộc hành quân với quy mô lớn mang tên Báttilơ (Bastille) đánh chiếm các huyện bắc phần Bắc Ninh, Bắc Giang và Phúc Yên. Địch dùng 4.000 quân, được trang bị vũ khí tối tân, có máy bay, pháo binh, canô, tàu chiến yểm trợ, chia làm 5 hướng tiến quân.

Tại Từ Sơn, chúng dùng 1.000 quân, từ cầu Đuống chia làm 3 mũi: một mũi theo quốc lộ 1A đánh tới Cẩm Giang rồi chia thành hai toán, một toán qua Trang Hạ lên Đồng Kỵ; một toán qua Dương Sơn lên cầu Nét. Một mũi qua Thiên Đức, Khánh Hòa sang Dục Tú. Một mũi theo quốc lộ 2 rẽ xuống Yên Thường gặp mũi thứ hai ở đường xe lửa rồi hợp quân đánh vào Đông Hội, Cổ Loa. Đây là lần đầu tiên Đảng bộ, quân và dân Từ Sơn phải đương đầu với một cuộc tiến công quy mô lớn, ồ ạt của quân Pháp. Thực hiện nhiệm vụ của Trung ương Đảng, của Khu ủy và của Tỉnh ủy Bắc Ninh, quân và dân Từ Sơn đã chủ động, tập trung lực lượng, kiên quyết đánh địch. Du kích Đình Bảng mai phục đánh địch từ Phù Lưu đến Viềng trong hai giờ, diệt hàng chục tên, chặn bước tiến của địch. Tại Yên Lã, chùa Dặn, Đồng Kỵ, quân Pháp cũng bị quân ta chặn đánh. Ngày 14-7-1949, chúng bị du kích Nghĩa Lập, Phù Khê, Kim Bảng, Mai Động đánh trả quyết liệt.

Cuộc tiến công càn quét nhằm mục đích bình định, chiếm đóng, nên địch thực hiện chính sách “tam quang”[13] tàn bạo hòng khủng bố tinh thần cán bộ và nhân dân ta, đồng thời ra sức dụ dỗ, cưỡng ép, đàn áp để lập hội tề, bốt bảo an và xây vị trí đóng quân viễn chinh Pháp, chốt giữ những nơi xung yếu. Từ sau ngày 13-7-1949, trên địa bàn phía bắc tỉnh Bắc Ninh và huyện Từ Sơn, quân Pháp liên tục tiến hành các cuộc càn quét lớn, nhỏ, bắt phu san lấp đường bị ta phá hoại từ trước, xây đồn bốt, tháp canh, dồn ép nhân dân trở về làng để lập tề. Các ban hội tề, tổ chức lính bảo an hương dũng được thiết lập ở hàng chục làng trong huyện.

Để chống lại âm mưu, kế hoạch chiếm đóng của địch, chấp hành chủ trương của Tỉnh ủy, Huyện ủy Từ Sơn đã tổ chức cho đồng bào đi tản cư, các cụ già, trẻ em được đưa đến nơi xa chiến sự; trâu bò, lợn gà, thóc lúa được phân tán, cất giấu chống địch cướp phá. Bộ đội huyện phân tán, phối hợp với du kích các xã đánh địch.

Ngày 6-8-1949, địch càn quét vào các làng Ngũ Hà, Tam Sơn, Phúc Tinh đã bị du kích các xã chặn đánh quyết liệt. Tại chợ Me và Ngũ Hà, ta đánh mìn trên đường tiêu diệt 60 tên, thu một súng ngắn.

Trong ba tháng đầu năm 1950, địch tiến hành 33 trận càn quét lớn nhỏ, trong đó có một số trận càn lớn vào các xã Liên Sơn, Đông Môn, Dục Tú, Liên Hà, Vân Hà, Châu Khê, Phù Chẩn. Chúng thường cho quân sục sạo phá hoại, cướp bóc của cải, dồn ép nhân dân lập tề các làng ở Mai Lâm, Đông Hội, Ninh Hạ, Quang Trung, Tân Hồng. Về chính trị, chúng rải truyền đơn, tranh ảnh, tập trung nhân dân để tuyên truyền đề cao chính phủ bù nhìn Bảo Đại, cưỡng ép nhân dân lập tề. Đến cuối tháng 3-1950, trên toàn huyện Từ Sơn, địch đã đóng bảy vị trí là Dương Lôi, Dốc Lã, Chùa Dận, Đình Bảng, Phù Lưu, ga Từ Sơn, phố Lộc Hà. Các làng tề Đồng Kỵ, Dương Lôi, Cẩm Giang, Trang Liệt có lính hương dũng được địch trang bị súng.

Từ ngày 1-2 đến ngày 28-2-1950, thực hiện nghị quyết của Khu ủy, Tỉnh ủy Bắc Ninh mở chiến dịch phá tề, diệt bảo an hương dũng.

Hồi 23 giờ ngày 6-2-1950, chi bộ xã Tân Hồng lãnh đạo phá tề ở bốn thôn Yên Lã, Đại Đình, Dương Lôi, Nội Trì, bắt sáu bảo an, thu 14 súng trường. Ngày 7-2-1950, chi bộ Đông Hội tổ chức du kích xã vũ trang tuyên truyền, đột nhập nhà lý trưởng để cảnh cáo và yêu cầu giải tán hội tề. Bộ đội Từ Sơn tiêu diệt bảo an ở Cẩm Giang, bắt 15 tên, thu 17 súng và 15 lựu đạn. Đầu tháng 4-1950, địch bỏ vị trí Đình Bảng và Lộc Hà. Các vị trí cầu Đuống và Phù Lưu được địch đặt súng đại bác 105 ly.

Song song với nhiệm vụ kháng chiến, nhân dân Từ Sơn tích cực tham gia công tác kiến quốc. Sắc lệnh giảm tô, giảm tức, tạm cấp ruộng đất cho nông dân được Huyện ủy Từ Sơn tích cực thực hiện. Đến cuối năm 1950, hầu hết các xã trong huyện đã giao ruộng của bọn Việt gian phản động, ruộng đất vắng chủ cho tá điền cày cấy. Ruộng công điền, công thổ như ruộng đình, chùa, ruộng hậu, phe, tư văn… cũng được chính quyền giao cho nông dân thiếu ruộng cày cấy.

Thời kỳ này, quận trưởng Từ Sơn dựa vào quân Pháp, ngụy quân ở các đồn bốt và bọn hội tề tăng cường vây ráp, đe dọa, dụ dỗ bắt lính, bắt phu, thu thuế để phục vụ cho chiến lược “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. Các làng tề Công Đình, Tế Xuyên, Đồng Kỵ, Trang Liệt, Nghĩa Lập, Dục Tú, Trùng Quán, Yên Thường, Cẩm Thụ, Lại Đà, Hội Phụ, Mai Hiên là những nơi bị địch thường xuyên bắt dân tập trung điểm mặt, bắt làm thẻ căn cước, bắt phu, bắt nộp thuế. Nhưng do có đội ngũ cán bộ đảng viên cơ sở không sợ gian khổ, khó khăn nằm hầm bí mật, bám đất, bám dân lãnh đạo nhân dân đấu tranh công khai, hợp pháp, trừ khử những phần tử phản động làm tay sai cho giặc, nên đã làm thất bại nhiều cuộc bắt lính, bắt phu, thu thuế của địch, cơ sở kháng chiến được giữ vững, củng cố và phát triển.

Từ ngày 21 đến 23-8-1950, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Từ Sơn họp Hội nghị với sự tham gia của các đồng chí Quang Huy, Đỗ Văn, Quỹ, Bình, Ve, Nhâm. Các đồng chí vắng mặt có lý do là Tảo, Bốn, Đặng, Thành Yên. Hội nghị đánh giá ưu điểm, khuyết điểm việc thực hiện những nhiệm vụ xây dựng du kích xã, bộ đội địa phương huyện, chiến đấu chống địch càn quét, xây đồn lập bốt, diệt tề trừ gian, phát triển củng cố đảng, chính quyền, các đoàn thể quần chúng…, đồng thời đề ra những nhiệm vụ công tác cần kíp là kiện toàn bộ đội huyện: quyết định thành lập thêm một trung đội gồm 42 đội viên; giao chỉ tiêu cụ thể quân số cho từng xã; Đảng đoàn chính quyền chịu trách nhiệm về cấp dưỡng, do  đồng chí Lê Thanh Bình, Thường vụ Huyện ủy phụ trách huyện đội, đến ngày 10-9-1950 phải tổ chức xong trung đội bộ đội địa phương gồm 42 đội viên.

Thảo luận thông tri của Tỉnh ủy về việc bầu lại Ban Chấp hành Đảng bộ, hội nghị ấn định các chi bộ là đơn vị tổ chức bầu cử, từ ngày 15 đến ngày 20-9-1950 phải bầu xong. Biên bản bầu cử gửi lên Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, phiếu bầu niêm phong lại giao cho Ban chi ủy giữ.

Hội nghị phân công các đồng chí huyện ủy viên xuống các xã hướng dẫn và tham gia bầu cử: đồng chí Bình phụ trách xã Dục Tú; đồng chí Quỹ phụ trách Công Sở, xã Liên Hà, Vân Hà; đồng chí Văn phụ trách xã Mai Lâm, Đông Hội; đồng chí Nhâm phụ trách xã Châu Khê, Nghĩa Khê; đồng chí Ve phụ trách xã Phù Chẩn, Đồng Quang, Tân Hồng; đồng chí Tảo phụ trách xã Đông Môn, Minh Đức; đồng chí Tuấn phụ trách xã Đình Bảng; đồng chí Bốn phụ trách xã Quang Trung, Tiền Phong và đồng chí Đặng phụ trách xã Liên Sơn, Đồng Nguyên.

Hội nghị giao cho đồng chí Y sẽ triệu tập và tổ chức bầu cử ở các chi bộ cơ quan huyện ủy, xã Đồng Quang, Đình Bảng, Đồng Nguyên đóng quân ở Bắc Giang. Các đảng viên chi bộ cơ quan huyện ở nội địa, đóng ở đâu thì bầu ở đấy. Tổ Bính Hạ sẽ sang Châu Khê bầu cử.

Hội nghị bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 13 đồng chí, do đồng chí Quang Huy làm Bí thư Huyện ủy, đồng chí Đỗ Văn, Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy; đồng chí Lê Khoát, Chánh văn phòng Huyện ủy; đồng chí Đàn, quyền Bí thư Đảng đoàn nông dân huyện; đồng chí Toàn, Bí thư chi bộ xã Đông Hội và đồng chí Hinh làm Huyện đội trưởng.

Đầu tháng 9-1950, đồng chí Quang Huy, Bí thư Huyện ủy Từ Sơn được điều động làm Bí thư Huyện ủy Gia Lương. Đầu tháng 10-1950, các chi bộ đã bầu Ban chấp hành Huyện ủy Từ Sơn có 13 đồng chí, đồm các đồng chí Đỗ Văn, Lê Thanh Bình, Nguyễn Kim Quỹ, Nhâm, Ve, Tảo, Tuấn, Đặng, Yên, Minh Tân, Hinh, Toàn, Tính. Đồng chí Đỗ văn được bầu làm Bí thư Huyện ủy, đồng chí Nguyễn Kim Quỹ, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến huyện.

Thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng về việc phối hợp với chiến dịch Biên giới Thu Đông, Tỉnh ủy Bắc Ninh phát động phong trào “Tuần lễ thi đua giết giặc lập công”. Quán triệt chủ trương ấy, từ ngày 18 đến ngày 25-9-1950, bộ đội Từ Sơn cùng du kích các xã đánh mìn ở Dốc Lã, Vĩnh Kiều, đường số 3, phá hủy 13 xe cơ giới của địch. Sáng ngày 25-10-1950, bộ đội Từ Sơn cùng du kích xã Đồng Quang phục kích ở đền Đồng Kỵ, diệt tám tên phản động, thu một súng ngắn. Tỉnh phát động phong trào “rèn cán chỉnh quân”, thực hiện phương châm “vừa xây dựng, vừa chiến đấu”, đẩy mạnh chiến tranh du kích, chuẩn bị chiến trường để bộ đội chủ lực vào hoạt động trong vùng sau lưng địch.

Để tiếp viện cho chiến dịch Biên giới Thu Đông, nông dân Từ Sơn đã tự nguyện bán cho Nhà nước 283 tấn 586 kg thóc[14] để Chủ tịch Hồ Chí Minh khao thưởng bộ đội. Số thóc này được xay giã thành gạo, hàng nghìn dân công bằng đôi vai của mình đã gánh gạo vượt qua đồn bốt địch, vượt sông Ngũ Huyện Khê, sông Cầu trong đêm đông gió bắc, mưa phùn, rét ngọt lên vùng căn cứ kháng chiến Bắc Giang, Thái Nguyên nhập kho để Bác Hồ khao quân.

Nhằm khủng bố tinh thần nhân dân, triệt phá cơ sở của ta, từ 5 giờ sáng đến 15 giờ ngày 9-10-1950, quân Pháp và bọn tề ngụy ở bốt Chờ, bốt Núi (Yên Phong), Phù Lỗ (Đông Anh), Dộc Nội, Lộc Hà (Từ Sơn) huy động hơn 500 quân càn quét vào các làng Quan Đình, Phù Xá, Quan Độ, Mẫn Xá thuộc xã Đông Môn. Chúng sục sạo rất kỹ, tìm thấy một số hầm bí mật, bắt 16 người, trong đó có đồng chí Nguyễn Kim Quỹ, Thường vụ Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính huyện, một lục sự, một liên lạc, một cán bộ của tỉnh, một chi ủy viên xã, hai chiến sỹ quân báo, một đảng viên, bốn du kích và bí thư chi bộ xã Hòa Tiến, huyện Yên Phong. Đồng chí Nguyễn Kim Quỹ, bị địch tra tấn rất dã man, nhưng đồng chí rất dũng cảm, giữ vững khí tiết của người cộng sản. Chúng đưa đồng chí Quỹ về bốt Phù Lỗ (Đông Anh) thủ tiêu.

Đến cuối tháng 10-1950, Huyện ủy Từ Sơn chỉ còn bảy đồng chí (hai đồng chí bị bắt, bốn được Tỉnh ủy điều động nhận công tác nơi khác), Ban Thường vụ Huyện ủy gồm các đồng chí Đỗ Văn (Bí thư), Minh Tân (tức Hàn), Lê Thanh Bình. Thi hành Chỉ thị của Trung ương Đảng, từ tháng 11-1950, Đảng bộ Từ Sơn tạm ngừng công tác phát triển đảng[15].

Ngày 6-12-1950, Chính phủ Pháp cử tướng Đờlát Đờtátxinhi sang Đông Dương làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh, kiêm cao ủy Pháp. Đờlát Đờtátxinhi vạch ra kế hoạch với nội dung: xây dựng lực lượng cơ động nhanh, lực lượng ngụy binh quy mô lớn, tiến hành chiến tranh tổng lực, bình định vùng chiếm đóng, đánh phá vùng du kích; xây dựng phòng tuyến boongke, thiết lập vành đai trắng (không người); đánh phá hậu phương Việt Minh bằng không quân, gián điệp, biệt kích, chiến tranh tâm lý.  

Để phá tan âm mưu của địch, Trung ương Đảng mở chiến dịch Trần Hưng Đạo (25-12-1950 đến 17-1-1951), chiến dịch Hoàng Hoa Thám (20-3 đến 7-4-1951), chiến dịch Quang Trung (28-5 đến 20-6-1951) đánh vào vùng Hòa Bình và Hà Nam Ninh. Phối hợp với các chiến dịch trên, ngày 30-1-1951, một đại đội của Tiểu đoàn Thiên Đức cùng với bộ đội Từ Sơn, du kích xã Đồng Quang tiến công làng tề Trang Liệt, bắt 20 hương dũng, thu 20 súng trường và súng săn hai nòng. Trận đánh diễn ra nhanh chóng, giành thắng lợi lớn. Chiến thắng Trang Liệt có tiếng vang lớn, bọn tề ngụy hoang mang, dao động, tạo thuận lợi cho công tác xây dựng phát triển cơ sở kháng chiến của các địa phương trong huyện Từ Sơn. Đêm 22-3-1951, bộ đội Từ Sơn phối hợp với Đại đội 555 bộ đội chủ lực tỉnh đánh bọn lính dõng ở đình Lý Nhân, diệt một số tên, thu một số quân trang, quân dụng. Trong trận đánh này, ta cho nổ bộc phá, đánh đổ Tam Quan, khiến bọn địch rất hoang mang lo sợ. Du kích khu Tiền Phong dùng dao găm giết hai lính Pháp tại chợ Đuống giữa ban ngày, du kích Đồng Nguyên, Liên Sơn, Quang Trung bám đường quốc lộ 1A, đặt mìn, bộc phá đánh bọn đi rà soát mìn, đánh xe địch liên tục suốt ngày đêm này sang đêm khác.

Để đối phó với hoạt động của ta, từ giữa tháng 5-1951, địch dùng một lực lượng lớn quân đóng ở các đồn bốt thuộc nội địa và một số điểm giáp ranh huyện Từ Sơn, như Xuân Dục (Đa Phúc) 1.500 quân, Trùng Quán 600 quân, Nét (Đông Thọ) 1.500 quân… Mặt khác, chúng tung gián điệp điều tra lực lượng bộ đội ta. Ở Từ Sơn, từ ngày 14-5 đến ngày 6-6-1951, địch mở cuộc càn quét quy mô 300 đến 700 quân vào các xã Phù Chẩn, Minh Đức, Nghĩa Khê, Vân Hà, Ninh Hạ, Ngũ Hà, Dục Tú. Ngày 15-7-1951, địch cho 3.000 quân chiếm đóng, lập phòng tuyến sông Cầu (xây hệ thống bốt boongke, lập vành đai trắng). Phòng tuyến sông Cầu của địch gây khó khăn cho ta trong việc đi lại từ nội địa Bắc Ninh ra vùng tự do Bắc Giang, Thái Nguyên. Cùng thời gian này, địch cũng hoàn thành hệ thống bốt boongke dọc quốc lộ 1A, quốc lộ 2 và hai bên đầu cầu Đuống, đê Đuống thuộc địa phận xã Mai Lâm, Đình Xuyên, Hạ Dương (Từ Sơn).

Theo yêu cầu của Huyện ủy Từ Sơn, Đại đội 555 thuộc Tiểu đoàn Thiên Đức đã về hoạt động ở Từ Sơn. Huyện ủy chủ trương tập trung lực lượng bao gồm Đại đội 555, Đại đội bộ đội huyện cùng du kích xã tiêu diệt tề, bảo an ở Thiết Bình và Me. Sau khi nghiên cứu và nắm được quy luật hoạt động của địch, Đại đội 555 cùng với bộ đội địa phương huyện và du kích xã đã tập kích làng tề Thiết Bình, bắt ba hội tề, diệt một trung đội bảo an làng tề (Me), bắt chánh tổng hội tề phản động.

Ngày 4-10-1951, địch dùng hai trung đoàn cơ động càn quét các xã Liên Hà, Vân Hà, Dục Tú, Nghĩa Khê, Minh Đức, Văn Môn, Đông Thọ, thành lập chi khu Thiết Bình, đóng bốt Thiết Bình và cầu Tó, phá vỡ vùng du kích của ta. Một số cán bộ, đảng viên hoang mang, dao động, không bám cơ sở; bọn phản động lập hội tề, xây bốt bảo an ở 15 làng thuộc các xã Liên Hà, Vân Hà, Minh Đức. Đây là thời kỳ khó khăn nhất của Đảng bộ, quân và dân huyện Từ Sơn.

Để trực tiếp chỉ đạo phong trào kháng chiến, cơ quan Huyện ủy Từ Sơn chuyển về Phù Chẩn. Tháng 11-1951, đồng chí Đỗ Văn được Tỉnh ủy điều động đi công tác khác. Đồng chí Minh Tân được chỉ định làm Bí thư Huyện ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy có đồng chí Lê Thanh Bình, Minh Tân và Lê Thành Yên.

Trước tình hình địch càn quét, khủng bố dữ dội, Huyện ủy Từ Sơn khẩn trương ổn định tư tưởng, xây dựng tinh thần kiên trì bám đất, bám dân, quyết tâm củng cố, phát triển cơ sở trong cán bộ, đảng viên, kiên quyết diệt trừ bọn phản động đầu sỏ, chống lập tề, bảo an, hương dũng.

Thực hiện chủ trương của Huyện ủy, đêm 19-1-1952, Đại đội bộ đội Từ Sơn phối hợp với Đại đội 555 bộ đội chủ lực tỉnh và du kích xã Vân Hà tập kích vào sào huyệt bọn tề tập trung, diệt tám tên chánh tổng, lý trưởng tề và hai tên gián điệp ở các xã Liên Hà, Vân Hà, Minh Đức. Đây là một thắng lợi to lớn, phá tan kế hoạch lập hội tề, xây bốt bảo an của địch, tạo điều kiện cho sự phát triển chiến tranh du kích ở Từ Sơn lên một bước mới.

Thực hiện chủ trương của Trung ương đưa bộ đội vào vùng sau lưng địch, nơi chúng sơ hở vì phải tập trung quân cho chiến dịch Hòa Bình, tiêu diệt đồn bốt địch để mở rộng vùng du kích và căn cứ du kích, đầu năm 1952, Trung đoàn 98 thuộc Đại đoàn 361 vào chiến trường Bắc Ninh hoạt động.

Ngày 21-2-1952, Trung đoàn 98 vào Từ Sơn diệt tề ở Đồng Kỵ. Chiều ngày 21-2-1952, lính quận Từ Sơn càn quét làng Dương Sơn, bị đại đội thuộc trung đoàn 98 chặn đánh, bắt sống 13 lính. Đêm 21-2-1952, một tiểu đoàn của Trung đoàn 98 cùng Đại đội Từ Sơn và du kích xã Đồng Quang đánh bốt Đồng Kỵ. Bọn tề và bảo an Đồng Kỵ tháo chạy khỏi làng về bốt Từ Sơn. Quân ta bắt một lý trưởng tề, một cố vấn, một số lính bảo an, thu 20 súng, rồi ém quân tại làng Đồng Kỵ để đánh viện binh địch. Đúng như dự đoán, ngày 22-2-1952, một tiểu đoàn địch có xe tăng, pháo yểm trợ đánh vào làng Đồng Kỵ. Quân ta chiến đấu kiên cường, anh dũng khiến địch không vào được làng, địch chết và bị thương trên 100 tên. Sau trận này, bọn tề và bảo an Đồng Kỵ phải lưu vong không dám về làng.

Ngày 29-3-1952, bộ đội Từ Sơn phối hợp với Đại đội 555 bộ đội tỉnh và du kích xã Dục Tú tiêu diệt lô cốt Dục Tú, làm tan rã lực lượng bảo an, giải phóng một số người bị địch bắt giam.

Ngày 16-5-1952, Đại đội Từ Sơn phối hợp với Đại đội 555 bộ đội tỉnh và du kích xã Vân Hà, có nội ứng, tiến công chi khu Thiết Bình. Sau gần một giờ ta tiêu diệt lô cốt mẹ, sở chỉ huy địch. Một lô cốt con chống cự, lập tức bị ta tiêu diệt bằng bộc phá. Trận này quân ta chiến thắng lớn, tiêu diệt toàn chi khu Thiết Bình gồm 100 lính, trong đó có một tiểu đội Âu-Phi, thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng.

Sau khi rút khỏi Hòa Bình, địch đã tập trung một lực lượng trên 20.000 quân cơ động 5MG, mở cuộc càn quét dài ngày (từ 14-4 đến 6-5-1952) mang tên Pôlô-Poóctô-Tuyếccô trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Cuộc chiến đấu chống địch càn quét của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương diễn ra hết sức ác liệt ở các khu căn cứ du kích Tiên-Quế-Võ, Gia-Thuận[16]. Riêng huyện Từ Sơn, địch đóng quân cơ động theo quốc lộ 1A để bao vây khu căn cứ Tiên- Quế-Võ.

Tháng 10-1952, địch tiến hành càn quét các xã Liên Sơn, Đồng Nguyên, Trang Liệt, du kích địa phương đánh trả quyết liệt. Tại Đình Bảng, bên cạnh đội du kích còn có đội thiếu niên du kích chiến đấu rất anh dũng, nổi danh cả nước.

Ngày 10-12-1952, chiến dịch Tây Bắc kết thúc, Bộ chỉ huy Pháp vội vã điều quân về đồng bằng Bắc Bộ để cứu vãn tình hình đang lâm nguy. Quân cơ động phối hợp với quân chiếm đóng tổ chức nhiều cuộc càn quét ở các tỉnh trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ ngày 23-2 đến ngày 4-3-1953, địch tiến hành cuộc càn quét NICE với lực lượng ba binh đoàn cơ động (GM), 35 khẩu pháo, 30 xe tăng, 15 máy bay đánh vào hai khu căn cứ du kích Gia Lương và Tiên-Quế-Võ. Tiểu đoàn Thiên Đức (D18) phục kích tiêu diệt hàng chục tên giặc tuần tiễu trên đường quốc lộ 1A tại Tiêu-Viềng.

Phát hiện những hoạt động của Tiểu đoàn Thiên Đức, trận càn NICE chuyển hướng sang vùng Yên Phong-Từ Sơn. Tại thôn Phù Lộc, xã Phù Chẩn đã diễn ra cuộc chiến đấu vô cùng ác liệt giữa Tiểu đoàn Thiên Đức với binh đoàn cơ động NICE. Địch dùng xe tăng bắn nát cổng và lũy tre làng, đồng thời bốn máy bay dội bom vào giữa làng, làm nhiều nhà bị cháy, hầm hố bị sập. Quân ta vẫn bám chắc công sự, đánh bật nhiều đợt địch tiến quân vào làng, hàng chục tên bị chết, bị thương.

Đến 17 giờ ngày 2-3-1953, sau bốn đợt tiến công, địch bị tổn thất nặng vẫn không chiếm được Phù Lộc. Tuy nhiên, để bảo toàn lực lượng, quân ta rút khỏi làng Phù Lộc vào 4 giờ sáng ngày 3-3-1953, toàn bộ Tiểu đoàn Thiên Đức đã rút về Trung Màu (Tiên Du). Nhân dân thổi xôi, nấu cháo, băng bó chăm sóc thương binh và huy động thuyền nan làm bè chuối để bộ đội vượt sông Đuống sang Thuận Thành. Sáng hôm sau địch tập trung toàn bộ lực lượng tiến công vào Phù Lộc với ý đồ tiêu diệt bộ đội ta, nhưng quân ta đã rút hết, quân địch phải rút quân.

Từ sau trận càn NICE, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh và huyện Từ Sơn địch thường tổ chức các cuộc càn quét nhỏ, vây ráp các làng tề, hỗ trợ bọn ngụy quyền (quân trưởng, bang tá, hội tề) tiến hành bắt lính, bắt phu, thu thuế, thu đảm phụ quốc phòng.

Tháng 5-1953, Tỉnh ủy phát động phong trào thi đua giành cờ khá nhất của liên khu Việt Bắc với nội dung bám địch, tìm địch mà đánh, tạo ra chiến trường diệt địch, lập công.

Tiểu đoàn Thiên Đức tiếp tục vào địa bàn Từ Sơn hoạt động. Ngày 9-10-1953, tiểu đoàn tập kích bốt cầu Tây. Trong vị trí cầu Tây ta có hai nhân mối, cuộc chiến đấu diễn ra thuận lợi, chỉ sau 30 phút, bốt cầu Tây đã bị tiêu diệt. Ta bắt sống 10 tên gồm một tên đồn trưởng Tây da trắng, ba Tây da đen, sáu lính ngụy, thu hai đại liên, bốn trung liên, 13 súng trường, một cối 60 ly, hai rađiô, một máy dò mìn, cùng nhiều quân trang, quân dụng.

Để thực thi kế hoạch Nava (8-1953), Pháp tăng thêm 12 tiểu đoàn quân viễn chinh từ Pháp và Bắc Phi sang Đông Dương. Nava tuyên bố “không chấp nhận một sự rút lui nào”, rằng kế hoạch Nava sẽ giành thắng lợi trong 18 tháng. Chính quyền quốc gia Việt Nam ra liền hai sắc lệnh động viên để bắt 20 vạn lính ngụy, thực hiện chính sách “dùng người Việt đánh người Việt”.

Để đập tan âm mưu của địch, tháng 9-1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra nghị quyết về nhiệm vụ chiến cuộc Đông-Xuân 1953-1954, quyết tâm chủ động, linh hoạt đánh địch, xốc tới đánh bại kế hoạch Nava.

Phối hợp với chiến trường chính, ngày 14-12-1953, tiểu đoàn Thiên Đức cùng bộ đội huyện, du kích các xã đánh làng tề Đồng Kỵ. Do bí mật tập kích, lại được nhân mối làm nội ứng cho nên chỉ sau một giờ, quân ta đã tiêu diệt 10 tên, bắt sống 54 tên, thu 26 súng các loại. Trong trận này, tên Bơ Hồng, lý trưởng hội tề phản động bị tiêu diệt, tên cố vấn tình báo địch người Nhật và tên trùm Quốc dân Đảng phản động bị bắt sống.

Ngày 26-1-1954, đại đội 603 và bộ đội Từ Sơn tập kích vị trí Kim Quan Đông, diệt 30 tên, làm bị thương 5 tên, bắt 39 tên. Đêm 30-1-1954, Đại đội 603 tập kích quận lỵ Từ Sơn (có nhân mối). Quân ta bí mật, bất ngờ nổ bộc phá, đột nhập, bọn địch trong bốt đầu hàng. Tên quận trưởng chui xuống hầm bị ta ném bộc phá chết ngay tại chỗ. Ta diệt 12 tên, 5 tên bị thương, 88 tên bị bắt, thu 1 súng cối, 1 đại liên, 120 súng các loại, 1 két bạc có 1.200.00đ Đông Dương, bản danh sách 28 tên chỉ điểm.

Hai trận Kim Quan Đông và quận lỵ Từ Sơn, quân ta đại thắng đã xóa sổ tiểu đoàn lính bảo an ngụy huyện Từ Sơn. Đây là tiểu đoàn ngụy quân bị xóa sổ đầu tiên trên chiến trường Bắc Bộ. Thiên Đức,-tiểu đoàn bộ đội chủ lực tỉnh nổi danh cả nước, quân thù khiếp sợ, được Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam tặng Huân chương chiến sỹ hạng nhất, được nhân dân tỉnh Bắc Ninh tin yêu và mến phục. Nhân dân Đình Bảng, Cẩm Giang và hàng chục làng ven quốc lộ 1A luôn ủng hộ Tiểu đoàn Thiên Đức, bộ đội huyện ba tấn quà nhân dịp Tết Giáp Ngọ và nhiều tặng phẩm quý giá khác.

Đi đôi với những trận đánh địch thắng lợi giòn giã trên, phong trào chống địch bắt lính, làm binh vận ở Từ Sơn cũng được Huyện ủy tập trung chỉ đạo, phát triển mạnh mẽ. Bộ phận địch vận của huyện phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, nhịp nhàng với Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Mẹ chiến sỹ từ huyện đến cơ sở tích cực vận động, tuyên truyền giáo dục các gia đình có người thân theo giặc hoặc bị cưỡng bức, dụ dỗ tham gia ngụy quân vận động anh em trở về với gia đình, bố mẹ, vợ, con. Ở phố Từ Sơn, nhân dân đã chặn hai xe ôtô chở 100 thanh niên bị bắt lính về Hà Nội. Lái xe cùng bọn lính bị bắt, toàn bộ 100 thanh niên bị bắt lính được giải thoát. Để chống địch càn quét bắt thanh niên đi lính, Huyện ủy chỉ đạo các xã vận động và tổ chức cho thanh niên ra vùng tự do. Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Mẹ chiến sỹ đã tổ chức cho trên 1.600 thanh niên các xã Năng Hạ, Đông Hội, Dục Tú, Minh Đức, Tiền Phong, Đồng Nguyên, Mai Lâm đã ra vùng Hiệp Hòa, Yên Thế (Bắc Giang), Phú Bình, Phổ Yên, Đồng Hỷ (Thái Nguyên) tránh giặc bắt lính.

Các chi bộ Đình Bảng, Tân Hồng, Tiền Phong lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống địch dồn làng, chống nhổ lúa. Khi địch phá nhà của nhân dân Đình Bảng, Tân Hồng; dồn nhân dân ra nông khu Đình Bảng, các chi bộ xã đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh đòi chúng phải bồi thường thiệt hại cho những gia đình bị phá nhà. Kết quả chúng phải bồi thường 164 vạn đồng Đông Dương cho các gia đình bị hại. Chúng cũng bãi dân làng Đông Môn đưa trâu đi dò mìn trên đê. Nhân dân Nghĩa Tiến Khê đấu tranh không nộp tre cho địch cũng giành được thắng lợi. Hàng nghìn dân công của huyện Từ Sơn tham gia dân công hỏa tuyến phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ.

Phối hợp với chiến trường Điện Biên Phủ, dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy quân và dân Từ Sơn đã tập kích đánh địch ở Phù Ninh, Đền Đô, Nghĩa Tiến Khê, Kim Quan Đông, Phù Lưu. Ngày 3-1954, quân ta tập kích địch ở Kim Quan Đông buộc một đại đội ngụy quân phải đầu hàng, thu toàn bộ vũ khí. Cũng đầu tháng 3-1954, du kích Phù Lưu đánh mìn diệt gần 200 sỹ quan, hạ sỹ quan địch đóng tại địa phương. Ngày 4-4-1954, du kích xã Phù Chẩn và bộ đội huyện chống địch càn quét, tiêu diệt và làm bị thương 40 tên. Đầu tháng 4-1954, bộ đội Thiên Đức cùng với bộ đội huyện Từ Sơn được nhân mối đưa đường đã đánh tiêu diệt quân lỵ Từ Sơn lần thứ hai. Lực lượng địch bị tiêu diệt hoàn toàn. Ta thu 2 đại liên, 4 trung liên, 9 tiểu liên, 59 súng trường, 1 súng cối 60 ly, 2 máy VTĐ và toàn bộ đạn dược cùng quân trang, quân dụng. Ngày 28-4-1954, hai trung đội của Đại đội Từ Sơn và Trung đội 40 bộ đội tỉnh, có nội ứng, mật tập pháo đài lô cốt boongke Yên Viên, diệt một số tên, bắt sống 6 lính da đen, thu 8 khẩu súng đại liên, trung liên và 10 súng tự động.

Tin quân ta chiến thắng ở Điện Biên Phủ truyền về làm cho bọn Việt gian phản động, binh lính địch đóng quân ở Đình Bảng hoang mang dao động. Lợi dụng tình hình đó, chi bộ Đình Bảng lãnh đạo đẩy mạnh công tác địch ngụy vận, nên các binh lính đã ra hàng, nộp cho ta 4 xe ôtô vận tải, 1 xe díp, 3 tấn sắt, 1 két bạc, 190 cuộn dây điện và nhiều khí tài khác.

Ngày 7-5-1954, tin chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng đã cổ vũ quân và dân Từ Sơn xốc tới chiến đấu tiêu diệt sinh lực địch. Sáng sớm ngày 25-5-1954, địch cho quân càn quét vào Thiết Úng, Vân Hà, Đình Tràng, bộ đội và du kích ta đánh mìn diệt một toán quân đi đầu. Đến trưa chúng vào được đình làng Đình Tràng, xăm được một hầm, bắt một bộ đội, một du kích, đốt nhà, vơ vét của cải và bắn chết 13 dân thường. Đến chiều khi địch rút quân qua Thiết Úng, Thiết Bình bị một trung đội bộ đội Từ Sơn phối hợp với du kích Dục Tú, Vân Hà phục kích, giặc chạy toán loạn, quân ta tiêu diệt một tiểu đội, thu 2 khẩu súng trung liên, 1 điện đài, giải thoát 2 cán bộ bị địch bắt. Ngày 7-6-1954, du kích Tân Hồng diệt xe địch tại phố Từ Sơn. Đêm 10-7-1954, tiểu đoàn Thiên Đức cùng bộ đội huyện, du kích các xã tiêu diệt vị trí chùa Côi, Du Lâm diệt 90 tên địch. Ngày 14-7-1954, quân ta tiến công bốt Dốc Lã nằm, sau 15 phút đã tiêu diệt và bắt sống hai trung đội địch. Ngày 26-7-1954, Đại đội bộ đội Từ Sơn và du kích các xã đánh bốt Thiết Bình và bảo an Đồng Kỵ thu toàn bộ vũ khí gồm trên 200 khẩu súng các loại.

Thất bại trên chiến trường Điện Biên Phủ, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp nghị Giơnevơ ngày 21-7-1954 về Việt Nam, Lào, Campuchia. Ngày 27-7-1954, lệnh ngừng bắn được thực hiện, quân đội Pháp phải rút khỏi miền Bắc Việt Nam. Nhưng trước khi rút khỏi Đình Bảng, chúng đã phá hoại khu vực đóng quân ở các thôn Thượng, Hạ, Bà La, Trung Hòa, Xuân Đài. Chúng còn định dùng bộc phá phá hủy ngôi đình cổ kính của làng Đình Bảng, dưới sự chi bộ xã, nhân dân Đình Bảng đã đấu tranh buộc địch phải ngừng việc phá hoại ngôi đình.

Thi hành Hiệp nghị Giơnevơ, đúng 10 giờ sáng ngày 8-8-1954, tên lính viễn chinh Pháp cuối cùng đã rút khỏi thị xã Bắc Ninh. Ủy ban quân chính thị xã Bắc Ninh, đội ngũ cán bộ, lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam vào tiếp quản thị xã Bắc Ninh. Toàn bộ thị xã Bắc Ninh từng bừng trong ngày hội lớn.

Cũng trong ngày 8-8-1954, bộ đội và chính quyền huyện Từ Sơn tiếp quản phủ huyện, nhưng một số địa phương bên kia cầu Bà Tép (trên quốc lộ 1A) như Yên Thường, Trùng Quán, Yên Viên, Ninh Hiệp, Mai Lâm, Đông Hội… thuộc khu vực tập kết 80 ngày, đến ngày 10-10-1954 mới được hoàn toàn giải phóng. Quê hương sạch bóng quân xâm lược, cán bộ và nhân dân Từ Sơn vô cùng phấn khởi, tự hào bước vào thời kỳ mới của cách mạng, khắc phục hậu quả của chiến tranh, hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ, thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trước hết là do có đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và tự lực cánh sinh đúng đắn, tài tình của Đảng, được Đảng bộ huyện Từ Sơn quán triệt sâu sắc và vận dụng một cách linh hoạt, chủ động, sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể tại địa phương. Đó là thắng lợi của sự kết hợp giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh binh vận; giữa kháng chiến và kiến quốc, là thành tích chung của toàn thể quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện và được sự giúp đỡ chỉ đạo của Tỉnh ủy Bắc Ninh. Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng bộ và nhân dân Từ Sơn đã ghi lại bằng những trang sử chói lọi. Đó là những năm tháng gian khổ, hào hùng rất đỗi tự hào của Đảng bộ Đảng và nhân dân Từ Sơn.

D. Từ Sơn trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975)

I. ĐẢNG BỘ HUYỆN TỪ SƠN LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (1954-1963)

1. Cải cách ruộng đất, hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế (1954-1957)

Sau hoà bình lập lại (1954), miền Bắc trong tình trạng bị chiến tranh tàn phá nặng nề, kinh tế kém phát triển, đời sống kinh tế gặp nhiều khó khăn, giai cấp phong kiến chưa bị đánh đổ hoàn toàn. Trong tình hình ấy, tháng 9-1954, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra nghị quyết, nêu rõ nhiệm vụ của miền Bắc lúc này là: “Hàn gắn những vết thương của chiến tranh, phục hồi kinh tế quốc dân, giảm bớt những khó khăn về đời sống của nhân dân, phát triển kinh tế một cách có kế hoạch và làm từng bước, mở rộng việc giao lưu kinh tế giữa thành thị và thôn quê”[1].

Nhân dân Từ Sơn cùng với nhân dân cả nước phấn khởi bước vào thời kỳ khôi phục kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà. Nhưng đảng bộ và nhân dân Từ Sơn phải đứng trước những khó khăn, thử thách mới. Cuộc chiến tranh kéo dài do thực dân Pháp gây ra đã để lại những hậu quả nặng nề về mọi mặt cho nhân dân trong huyện. Tình hình tài chính, kinh tế nghèo nàn, kiệt quệ, sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp bị đình đốn, trì trệ, đồng ruộng bị bỏ hoang hóa ở nhiều nơi. Nhiều làng mạc, nhà cửa, các công trình kiến trúc, đường giao thông… bị tàn phá nặng nề. Một số địa phương vẫn còn vướng mìn, dây thép gai, gây khó khăn cho việc phục hồi sản xuất. Đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Vụ mùa 1954 bị ngập úng nặng, mất mùa. Nhân dân một số nơi bị thiếu đói, nhất là ở các xã Phù Chẩn, Đông Môn.

Các cơ sở sản xuất thủ công nghiệp của Từ Sơn cũng nằm trong tình trạng ngưng trệ, sa sút. Các làng nghề chạm gỗ, rèn sắt, dệt vải… không phát triển được do thiếu nguyên vật liệu. Sau khi Pháp rút quân, chúng còn gài lại gián điệp, Việt gian chống phá cách mạng. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược vừa kết thúc, tháng 7-1954, nhân dân Từ Sơn đã phải đương đầu với âm mưu cưỡng ép đồng bào công giáo di cư đi Nam do các thế lực phản động lợi dụng tôn giáo gây ra. Bọn phản động tuyên truyền xuyên tạc chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, chúng tung tin “Chúa đã vào Nam”, “Cộng sản sẽ phá đạo, giết giáo dân” và đe dọa “chiến tranh sẽ trở lại, Mỹ sẽ ném bom nguyên tử” nhằm lôi kéo ngụy quân, đồng bào Công giáo vào Nam gây nên tình hình chính trị xã hội trong các vùng Công giáo rất phức tạp. Để đối phó với âm mưu, thủ đoạn lừa bịp cưỡng ép đồng bào di cư vào Nam của địch, Tỉnh ủy đã triệu tập hội nghị phổ biến chủ trương, kế hoạch và tổ chức các đội xuống cơ sở để vận động đồng bào ở lại, coi đó là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, nhiệm vụ chính trị đặc biệt. Huyện ủy Từ Sơn tập trung chỉ đạo ở những cơ sở có đồng bào Công giáo, nơi bị địch tạm chiếm sâu, vận động được hàng trăm đồng bào ở lại quê nhà. Tuy nhiên, vẫn còn hàng trăm người chưa nhận thức đầy đủ mưu ma chước quỷ của địch, họ đã bỏ quê hương, làng xóm, ruộng vườn, nhà cửa vào Nam.

Sau ngày hòa bình lập lại, Huyện ủy Từ Sơn chi ủy có ba đồng chí là Ngọc Tường, Nhạ, Thoan, do đồng chí Ngọc Tường, ủy viên Thường vụ phụ trách. Toàn huyện có 20 chi bộ, gồm 3 chi bộ cơ quan, 17 chi bộ xã, với 363 đảng viên chính thức, 2 dự bị. Số đảng viên chưa được phục hồi sinh hoạt trên 600 đồng chí (do bị địch bắt mới trở về, do cầu an trong kháng chiến chống Pháp). Trước tình hình ấy, Huyện ủy đã khẩn trương củng cố tổ chức đảng, chính quyền, lãnh đạo nhân dân đoàn kết giúp nhau sản xuất khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống.

Tháng 4-1955, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, huyện Từ Sơn tiến hành cải cách ruộng đất và giảm tô nhằm đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến, đem lại ruộng đất, trâu cày cho nông dân. Cuộc cải cách ruộng đất được phát động, nhân dân khắp nơi trong huyện nhiệt tình hưởng ứng. Các đội cải cách dựa vào lực lượng nông dân đông đảo để tiến hành cuộc vận động cải cách ruộng đất. Khắp các địa phương tổ chức các cuộc họp dân, “ôn nghèo kể khổ”, vạch trần tội ác của bọn địa chủ cường hào.

Thực hiện cải cách ruộng đất, các địa phương đã tiến hành phân định thành phần giai cấp ở nông thôn, tịch thu, trưng thu, trưng mua ruộng đất của địa chủ chia cho nông dân. Các hộ nông dân trong huyện đều được chia ruộng đất, nhà ở, trâu cày… phấn khởi mang biển cắm tại các thửa ruộng mới được nhận.

Cuộc cải cách ruộng đất ở Từ Sơn thu được thắng lợi to lớn, đánh đổ toàn bộ bọn giai cấp địa chủ, xóa bỏ hoàn toàn chế độ bóc lột phong kiến, ước mơ nghìn đời của nông dân, người cày có ruộng đã được thực hiện.

Tháng 12-1955, Đoàn cải cách ruộng đất Bắc-Bắc mở hội nghị tổng kết công tác tại Đền Đô (Đình Bảng). Ngày 17-12-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh về dự hội nghị, Bác căn dặn, động viên cán bộ, nhân dân đoàn kết nỗ lực tham gia công tác. Trước khi về Hà Nội, Bác bắt nhịp cho mọi người hát vang bài “Kết đoàn”.

Trong tiến hành cải cách ruộng đất, ta đã mắc phải một số sai lầm nghiêm trọng về mặt phương pháp công tác, về chỉnh đốn tổ chức dẫn đến những hậu quả đáng tiếc. Những cán bộ, đảng viên, quần chúng bị quy sai thành phần, hoặc xử lý oan, sinh ra tư tưởng bi quan, dao động. Giữa năm 1956, Đảng ta phát hiện sai lầm trong cải cách ruộng đất và tiến hành sửa sai. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ X mở rộng (tháng 9-1956), đề khẳng định: “Kiên quyết sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, phát huy những kết quả và thắng lợi đã thu được… đoàn kết nội bộ, đoàn kết nhân dân, ổn định nông thôn, gây tinh thần phấn khởi, để đẩy mạnh sản xuất”[2].

Tỉnh ủy Bắc Ninh chỉ đạo các huyện khẩn trương thực hiện sửa sai, cử 14 cán bộ về Từ Sơn làm công tác sửa sai. Tháng 3-1957, Bác Tôn Đức Thắng được Bộ Chính trị cử về huyện Từ Sơn phổ biến Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ X về công tác sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất.

Tình hình tư tưởng ở nông thôn trong huyện thời kỳ này rất phức tạp. Có một số phần tử xấu xuyên tạc, đả kích cách mạng, một số người thắc mắc việc quy thành phần, đền bù tài sản chưa xứng đáng… Dưới sự chỉ đạo sâu sát, chặt chẽ của Huyện ủy, công tác sửa sai trong huyện nhanh chóng đạt kết quả. Đến quý III năm 1957, có 17 xã trong huyện đã hoàn thành cơ bản.

Kết quả công tác sửa sai (tính đến ngày 5-10-1957): địa chủ: đã hạ thành phần 397 hộ, còn lại 394 hộ. Phú nông: sửa thành phần 73 còn lại 108. Hạ xuống trung nông: 70 hộ. Tiểu thương: 2 hộ. Đưa lên địa chủ: 1 hộ. Thành phần có ít ruộng đất, đã hạ 52 hộ[3]. Trong sửa sai, toàn huyện đã trả tự do cho 195 người bị giam cầm oan trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức.

Hoàn thành nhiệm vụ sửa sai, tình hình chính trị, tư tưởng, trật tự an toàn xã hội ở trong huyện được ổn định, tổ chức đảng, chính quyền được củng cố. Hàng trăm cán bộ, đảng viên và quần chúng được minh oan, phục hồi đảng tịch, đoàn tịch, chức vụ, hạ thành phần.

Đầu năm 1956, Huyện ủy Từ Sơn chỉ còn đồng chí Nhạ phụ trách. Sau đó, đồng chí Nhạ được Tỉnh ủy Bắc Ninh điều đi làm công tác cải cách ruộng đất. Trong thời gian này, Tỉnh ủy chỉ định đồng chí Bồn phụ trách mọi công việc của Huyện ủy. Tháng 8-1956, đồng chí Nhạ đi cải cách ruộng đất về, tiếp tục giữ cương vị phụ trách Huyện ủy. Tháng 11-1956, Tỉnh ủy điều đồng chí Lê Viết Hưng về làm Bí thư Huyện ủy Từ Sơn. Đồng chí Lê Khoát, công tác ở Khu ủy Việt Bắc cũng được điều về tham gia Huyện ủy. Cuối năm 1956, Huyện ủy được bổ sung thêm đồng chí Nam và công nhận hai ủy viên mới là đồng chí Phạm Đăng Kiểm và Nguyễn Đình Khôi. Tháng 1-1957, Tỉnh ủy quyết định bổ sung thêm hai huyện ủy viên cho Từ Sơn là đồng chí Quách Văn Chiên và Hoàng Đức Lưu. Đến đầu năm 1957, Huyện ủy Từ Sơn đã được kiện toàn, có 7 ủy viên. Ban Thường vụ Huyện ủy có 3 đồng chí: Lê Viết Hưng, Nguyễn Tiến Nhạ và Lê Khoát.

Tổ chức đảng cơ sở cũng được kịp thời củng cố, chấn chỉnh. Năm 1956, toàn Đảng bộ huyện có 449 đảng viên thuộc 21 chi bộ xã và hai chi bộ cơ quan. Lớn nhất là Liên Hà và chi bộ mỗi chi bộ có 40 đảng viên. Trong đợt giảm tô và cải cách ruộng đất, toàn Đảng bộ có 264 đảng viên bị xử lý kỷ luật. Sáu tháng đầu năm 1956, huyện tiến hành củng cố và kiện toàn tổ chức đảng ở cơ sở. Đã kiện toàn được 14 Ban chi ủy xã (trong số 21 chi bộ) và hai chi bộ cơ quan, bổ sung được 27 chi ủy viên mới cho cơ sở, phục hồi chức vụ cũ cho 52 đồng chí. Đến cuối năm 1956, huyện đã bổ sung và kiện toàn 16 ủy viên ban hành chính xã, 21 ban chỉ huy xã đội, 10 ban chấp hành chi đoàn thanh niên, tám ban cán sự phụ nữ, 20 ban công an xã.

Trong những năm 1955-1957, tình hình sản xuất nông nghiệp của Từ Sơn gặp nhiều khó khăn. Cơ sở vật chất, kỹ thuật chưa có gì, thiếu vốn, thiếu lao động. Nạn hạn hán, úng lụt, giá rét, sâu bệnh… xảy ra hàng năm, đã ảnh hưởng lớn đến sản xuất. Trận bão lớn xảy ra tháng 9-1955 gây thiệt hại cho các địa phương, làm hư hại hàng trăm nóc nhà. Tiếp đó là hạn hán kéo dài trong các năm sau làm cho lúa, màu khô héo, diện tích canh tác đạt thấp. Vụ chiêm năm 1957 có mưa đá, gây thiệt hại lớn ở Tân Hồng, Liên Sơn, Phù Chẩn, tiếp đó là hạn hán, mưa úng.

Trước những thử thách khắc nghiệt của thiên nhiên, Huyện ủy và chính quyền các cấp đặc biệt quan tâm đến công tác đảm bảo sản xuất. Nhân dân các địa phương hưởng ứng các phong trào thi đua chống úng, chống hạn với các khẩu hiệu thể hiện quyết tâm chống chọi với thiên nhiên như “nghiêng đồng đổ nước ra sông”, “vắt đất ra nước, thay trời làm mưa”.

Huyện ủy tăng cường chỉ đạo việc đắp đê Ngũ Huyện Khê, vận động nhân dân đào mương, khơi giếng, tát nước tập thể để đảm bảo kế hoạch gieo trồng. Năm 1956, huy động 110.649 công đắp đê Ngũ Huyện Khê, đào con mương lớn từ sông Đuống về Văn Môn, 40 mương nhỏ, khơi 900 giếng nước để chống hạn. Năm 1957, huy động dân công đắp đập Nét (Đông Thọ) dài 18m, đắp 115 quãng đường khuyến nông, khơi 15 con mương dài 6.498m.

Năm 1957, thời tiết hết sức khắc nghiệt, hạn hán, rối lũ lụt liên tiếp xẩy ra. Chiều ngày 8-7-1957, cống Mai Lâm bị sụt và sáng ngày 11-7-1957 đê bị vỡ, gây ra nạn lụt ở 68 xã, 4 khu phố, 21 vạn dân (trong tổng số 81 xã, 5 khu phố, 24 vạn dân) thuộc các huyện Bắc phần của tỉnh Bắc Ninh. Nạn lụt đã làm mất trắng 5.339 mẫu lúa, 514 mẫu hoa màu, 2.104 mẫu mạ, 18.801 mẫu lúa mùa, làm đổ 5.200 nhà tường đất, vách đất ; làm trôi 11.890 kg hàng của mậu dịch và 78.870 kg thóc bị ướt. Do ảnh hưởng của sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, tình hình nông thôn trong huyện chưa ổn định, nên khi nạn lụt do đê Mai Lâm bị vỡ đã bị một số phần tử xấu gây rối. Ngày 21-7-1957, thực hiện chủ trương của tỉnh, tiến hành tháo nước qua cống đường sắt chảy qua quốc lộ 1A thuộc địa phận xã Đồng Nguyên, huyện Từ Sơn, để đảm bảo cho đê Ngũ Huyện Khê và đường sắt khỏi bị vỡ, một số phần tử xấu đã kích động du kích chống lại bộ đội và những người thi hành công vụ. Vụ việc trên đã được chính quyền địa phương kiên quyết xử lý theo đúng pháp luật[4]

Trong những ngày tháng bị lụt, Huyện ủy đã xác định công tác chống lụt là nhiệm vụ trung tâm đột xuất, cần tập trung chỉ đạo. Huyện ủy đã điều động 24 cán bộ đi làm nhiệm vụ chống lụt, huy động 7.700 dân công hàn khẩu đê Mai Lâm, huy động 50 thuyền nan đi cứu giúp dân. Ty lương thực tỉnh và hợp tác xã mua bán huyện kịp thời mang lương thực, hàng hóa để cứu trợ và bán phục vụ nhân dân. Đoàn thanh niên, Hội nông dân… tích cực tham gia khắc phục hậu quả nạn lụt. Các chi đoàn Châu Khê, Mai Lâm, Tiền Phong tổ chức lực lượng thanh niên tình nguyện giúp đỡ nhân dân dựng lại nhà cửa, sửa đường, dọn vệ sinh làng xóm.

Đặc biệt, ngày 5-9-1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm công trường hàn khẩu Mai Lâm và vùng bị lụt do đê Mai Lâm gây ra. Được Bác ân cần thăm hỏi động viên, ai nấy đều phấn khởi ra sức thi đua đắp đê Mai Lâm, chăm sóc lúa để nâng cao năng suất. Nhờ vậy, có 82.788 mẫu lúa mùa cấy tháng 8-1957 vẫn cho thu hoạch với năng suất tương đối khá[5].

Về sản xuất nông nghiệp. Năm 1955-1956 diện tích lúa đảm bảo kế hoạch, hoa màu tăng mạnh. Năng suất lúa màu tăng hơn năm 1955 từ 10-15%. Các đơn vị có năng suất khá là Liên Hà, Vân Hà, Phù Chẩn. Năm 1957, diện tích lúa 53.140 mẫu. Tổng sản lượng lương thực đạt 20.835,604 tấn. Hoa màu quy thóc đạt  2.823,867 tấn mẫu. Bình quân lương thực 263 kg/người/năm.

Cùng với phong trào thi đua sản xuất nông nghiệp, các ngành nghề thủ công nghiệp trong huyện như rèn sắt Đa Hội, chạm khắc gỗ Phù Khê, làm cày bừa Đông Xuất, dệt vải Ninh Hiệp… cũng nhanh chóng được phục hồi và phát triển, phục vụ kịp thời cho sản xuất và đời sống nhân dân.

Tong những năm 1956-1957, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Tỉnh ủy Bắc Ninh, Huyện ủy Từ Sơn phát động phong trào xây dựng tổ đổi công trong sản xuất nông nghiệp. Đến tháng 4-1957, toàn huyện có 12 xã thành lập được 57 tổ đổi công. Đến tháng 4-1958, ở 19 xã có tổ đổi công (trừ hai xã Đồng Quang và Mai Lâm chưa xây dựng). Toàn huyện đã có 136 tổ, mỗi tổ đổi công có từ 5-10 hộ nông dân tham gia. Đây là hình thực sơ khai của lối làm ăn tập thể. Các hộ nông dân liên kết giúp nhau trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là trong các vụ cày cấy và thu hoạch, dưới hai hình thức đổi công thường xuyên và bình công chấm điểm. Một số xã có phong trào mạnh như Liên Sơn, Liên Hà, Đông Thọ, các tổ đổi công đã bước đầu áp dụng kỹ thuật trong canh tác như ngâm mạ 3 sôi 2 lạnh, cấy thẳng hàng, cấy dày vừa phải, dùng cào cỏ Nghệ An để làm cỏ sục bùn… Nhờ có phong trào đổi công phát triển, sản xuất nông nghiệp có nhiều tiến bộ. Diện tích gieo trồng ngày càng tăng, năng suất cây trồng đạt cao hơn.

Năm 1957, huyện Từ Sơn đã thành lập hợp tác xã mua bán, có hơn 9.000 hộ xã viên. Các xã đều mở cửa hàng hợp tác xã mua bán ở các trung tâm đông dân như chợ Me, chợ Ống, chợ Cẩm; phố Từ Sơn, Yên Viên có cửa hàng hợp tác xã mua bán huyện.

Ba năm 1955-1957, Đảng bộ huyện Từ Sơn nhanh chóng ổn định tổ chức, lãnh đạo nhân dân đoàn kết phấn đấu hoàn thành thắng lợi cuộc cải cách ruộng đất và sửa sai, đem lại ruộng đất, trâu cày cho nông dân; đưa nhân dân lao động vào tổ đổi công sản xuất, khắc phục khó khăn phục hồi kinh tế, ổn định cuộc sống. Kết quả đó đã tạo tiền đề để Huyện thực hiện kế hoạch nhà nước 3 năm 1958-1960.

2. Thực hiện kế hoạch ba năm khôi phục và phát triển kinh tế-xã hội (1958-1960)

Xây dựng hợp tác xã nông nghiệp, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp. Sau khi hoàn thành cuộc vận động cải cách ruộng đất và sửa sai, tình hình sản xuất, đời sống và trật tự trị an xã hội của huyện Từ Sơn được cải thiện rõ rệt. Năm 1958, Đảng bộ và nhân dân Từ Sơn bước vào thời kỳ thực hiện kế hoạch ba năm của nhà nước, cải tạo và phát triển kinh tế, văn hóa theo hướng xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ trung tâm của cách mạnh nước ta thời kỳ này được Trung ương Đảng nêu ra rõ tại Hội nghị lần thứ 14 là: “phải ra sức cải tạo nông nghiệp, cải tạo thủ công nghiệp, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh theo chủ nghĩa xã hội, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của sức sản xuất. Vấn đề quan trọng bậc nhất là phải ra sức tổ chức nông dân lại, dựa trên cơ sở hợp tác hóa mà đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và dựa trên cơ sở nông nghiệp được cải tạo và phát triển mà đẩy mạnh công cuộc phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân”[6].

Trước tình hình và nhiệm vụ mới của cách mạng, Huyện ủy Từ Sơn tiếp tục đẩy mạnh củng cố, chấn chỉnh tổ chức đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng. Từ sau khi sửa sai đến đầu năm 1958, Ban lãnh đạo Huyện ủy có nhiều thay đổi. Đầu năm 1958, đồng chí Lê Viết Hưng được Tỉnh ủy điều động đi nơi khác, đồng chí Xuân Trường được cử về làm Bí thư Huyện ủy. Hệ thống tổ chức cơ sở đảng ở cơ sở được kiện toàn. Năm 1958, các chi bộ xã và cơ quan đều tổ chức đại hội.

Năm 1957, phong trào xây dựng tổ đổ công đã phát triển rộng rãi, toàn huyện có 98 tổ đổi công. Sang năm 1958, nhiều cán bộ, đảng viên tham gia và giữ vai trò nòng cốt trong tổ đổi công. Tính đến tháng 12-1958, toàn huyện có 110 tổ thực hiện bình công chấm điểm. Toàn huyện có 8.509 hộ đã vào tổ đổi công. Số đảng viên tham gia tổ đổi công là 550 người, trong đó có 96 chi ủy viên. Đến hết năm 1959, toàn huyện xây dựng được 1.230 tổ đổi công. Các xã có phong trào mạnh như Liên Sơn, Phù Chẩn, Tân Hồng có trên 90% hộ nông dân đã vào tổ đổi công. Đặc biệt xã Phù Chẩn chỉ còn hai hộ chưa vào tổ đổi công.

Tháng 6-1958, huyện Từ Sơn xây dựng hai hợp tác xã thí điểm là hợp tác xã Lỗ Khê (Liên Hà)[7] và hợp tác xã xóm Chúc (Liên Sơn). Đây cũng là hai hợp tác xã đầu tiên của tỉnh Bắc Ninh, được mọi người ca ngợi: Đầu tỉnh hai ả tố nga, Liên Sơn là chị, Liên Hà là em[8]. Nhiều cán bộ các ban, ngành của huyện đã được phân công về các hợp tác xã điểm, giúp đỡ về tổ chức, quản lý, kỹ thuật…

Vừa chỉ đạo các đơn vị làm điểm ở Liên Sơn, Liên Hà, Huyện ủy kịp thời tổ chức rút kinh nghiệm, mở rộng phong trào ở các địa phương khác. Năm 1958, đã xây dựng được 9 hợp tác xã nông nghiệp trong huyện.

Ngày 11-7-1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Bắc Ninh, Bác nói chuyện với 200 các bộ các cấp từ tỉnh đến cơ sở, các chiến sĩ thi đua, tổ trưởng tổ đổi công khá, đại biểu hợp tác xã nông nghiệp, bộ đội… Tại buổi nói chuyện, Bác tặng huy hiệu cho tổ đổi công xã Liên Hà huyện Từ Sơn), xã Hà Mãn huyện Thuận Thành. Bác căn dặn: “Cô chú nào muốn Bác thưởng thì làm cho kịp tổ Liên Hà, xã Hà Mãn. Còn tổ Liên Hà, xã Hà Mãn cần phải cố gắng thêm[9].

Trong không khí phấn khởi của vụ mùa thắng lợi, thực hiện, thực hiện chủ trương của Trung ương, từ ngày 21 đến ngày 24-12-1958, Đảng bộ huyện Từ Sơn tổ chức Đại hội lần thứ V. Đại hội đã kiểm điểm và đánh giá tình hình sản xuất năm 1958, phong trào xây dựng tổ đổi công, hợp tác xã và mọi mặt công tác trong năm. Phương hướng, nhiệm vụ năm 1959, Đảng bộ xác định là đẩy mạnh sản xuất, xây dựng phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, cải taọ thương nghiệp, thủ công nghiệp. Về phong trào đổi công, hợp tác hóa, Nghị quyết Đại hội đã nêu rõ mục tiêu: “đến hết năm 1959, đưa 95% hộ nông dân vào tổ đổi công, đưa 3-4 tổ lên hoạt động thường xuyên, 1-3 tổ lên bình công chấm điểm. Xây dựng 144 hợp tác xã nông nghiệp (từ 30 hộ trở lên), củng cố, phát triển hợp tác xã tín dụng, hợp tác xã mua bán”[10].

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ mới gồm 14 ủy viên chính thức và 3 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Hoàng Hải (tức Nham) được bầu làm Bí thư Huyện ủy.

Sau Đại hội, Huyện ủy mở đợt chỉnh huấn cho toàn thể cán bộ, đảng viên học tập về đường lối cải tạo xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Nghị quyết 14 của Trung ương Đảng. Cán bộ, đảng viên, hội viên các đoàn thể quần chúng trở thành nòng cốt trong phong trào hợp tác hóa nông nghiệp.

Từ chín hợp tác xã nông nghiệp được xây dựng năm 1958, Huyện ủy tổ chức học tập rút kinh nghiệm, do đó, trong 5 tháng đầu năm 1959, huyện Từ Sơn đã xây dựng được 56 hợp tác xã. Đến cuối năm 1959, toàn huyện có 104 hợp tác xã với 5.263 hộ nông dân tham gia.

Năm 1960, phong trào hợp tác hóa của huyện đạt được đỉnh cao với hai đợt phát triển xã viên vào mùa xuân và mùa thu. Tính đến tháng 12-1960, toàn huyện có 177 hợp tác xã, 17.746 hộ nông dân tham gia, đạt tỷ lệ 94,57%. Mỗi hợp tác xã bầu ra ban quản trị, có một chủ nhiệm, các phó chủ nhiệm, ban kiểm soát. Phần lớn các chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp đều là chi ủy viên. Phong trào hợp tác hóa của Từ Sơn căn bản hoàn thành. Các đơn vị có phong trào khá là Liên Sơn, Liên Hà, Tân Hồng, Phù Chẩn, Quang Trung.

Trong sản xuất nông nghiệp, Huyện ủy đã lãnh đạo các địa phương không ngừng mở mang diện tích gieo trồng, tích cực áp dụng khoa học kỹ thuật nhằm tăng năng suất và sản lượng lương thực. Nhiều hợp tác xã đã áp dụng các kỹ thuật trồng trọt như ngâm mạ 3 sôi 2 lạnh, cấy dày, cấy thẳng hàng. Các hợp tác xã biết sử dụng cày 51, bừa cỏ Nghệ An, xe cải tiến. Trong chăm bón cây trồng đã làm phân xanh, phân bùn, phân chuồng ủ mục, dùng phân hóa học…

Trong ba năm, huyện Từ Sơn tích cực huy động dân công đắp đê Ngũ Huyện Khê, đê sông Đuống, đào mương, khơi giếng, đắp đường khuyến nông, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Năm 1958 bị hạn nặng, toàn huyện đào 30 con mương, vận động nông dân dùng gầu tay tát nước tập đoàn, dùng chín máy bơm tưới nước cho 1.054 mẫu ruộng. Năm 1959, huyện huy động 1.500 dân công tham gia công trường Đại thủy nông Bắc-Hưng-Hải. Hàng nghìn dân công trong huyện tham gia xây dựng trạm bơm Trịnh Xá. Các địa phương còn đào thêm 113 con mương nội đồng và đắp 299 bờ vùng.

Các hợp tác xã chú trọng việc chăm sóc, phòng bệnh cho trâu bò để đảm bảo sức kéo và phân bón phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Do những nỗ lực phấn đấu của cán bộ, đảng viên và nhân dân, sản xuất nông nghiệp của Từ Sơn trong những năm 1958-1960 đã đạt được kết quả như tốt: bình quân gieo cấy 31,72 mẫu/năm, năng xuất bình quân 72,387 tạ/mẫu/năm, tổng sản lượng 23.224,314 tấn/năm, bình quân đầu người  năm đạt 367kg lương thực, cao hơn nhiều so với trước năm 1945.

Cải tạo tiểu thương và thủ công nghiệp, xây dựng hợp tác xã mua bán và hợp tác xã tín dụng. Năm 1958, huyện Từ Sơn tiến hành công tác cải tạo tiểu thương. Các hộ buôn bán nhỏ ở thị trấn Từ Sơn, Yên Viên được tổ chức vào các tổ mua bán, vận động một số hộ tiểu thương chuyển sang sản xuất nông nghiệp hoặc sản xuất thủ công nghiệp.

Năm 1959, huyện Từ Sơn đã thành lập được 12 hợp tác xã tiểu thương. Năm 1960 có 62 hợp tác xã, 667 hộ kinh doanh với số vốn là 109.272 đồng. Huyện còn vận động, chuyển 530 hộ tiểu thương sang sản xuất nông nghiệp.

Cuối năm 1957, huyện thành lập hợp tác xã mua bán có cơ sở ở 21 xã, với 9.111 hộ xã viên góp cổ phần. Năm 1958, hợp tác xã mua bán huyện phát triển thêm 37 xã viên. Năm 1959, phát triển được 414 xã viên và 416 cổ phần. Huyện đã mở được ba cửa hàng hợp tác xã mua bán ở các xã Liên Sơn, Liên Hà, Dục Tú, đồng thời chia lãi cổ phần cho xã viên.

Song song với phong trào xây dựng hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã tiểu thương, hợp tác xã mua bán, Huyện ủy Từ Sơn lãnh đạo các xã thành lập hợp tác xã tín dụng nhằm tập trung vốn dư thừa, giúp nông dân phát triển sản xuất. Năm 1958, huyện đã có 21 hợp tác xã tín dụng ở các địa phương, với 2.175 hộ xã viên. Vụ mùa 1958, hợp tác xã tín dụng đã bắt đầu cho xã viên vay vốn để mua trâu bò, thóc giống, nông cụ, thuốc trừ sâu… Năm 1959 có 2.518 hộ xã viên. Năm 1960 có 8.604 hộ xã viên. Ngân hàng huyện cũng được thành lập phục vụ sản xuất, đời sống nhân dân, cho vay 3.313 đồng để phát triển sản xuất.

Xây dựng hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, đẩy mạnh sản xuất. Từ Sơn là vùng quê có nhiều nghề thủ công truyền thống với các sản phẩm hàng hóa nổi tiếng như sơn mài, chạm gỗ, đồ sắt, cày bừa, dệt vải… Thực hiện Nghị quyết 14 của Trung ương Đảng về cải tạo xã hội chủ nghĩa, đưa lao động ngành nghề vào làm ăn tập thể, cuối năm 1959, huyện Từ Sơn thành lập được 13 hợp tác xã thủ công với 5.408 xã viên. Năm 1960 có 36 hợp tác xã với 11.120 xã viên. Các làng nghề truyền thống khắc phục mọi khó khăn, nhanh chóng phục hồi sản xuất, làm ra nhiều sản phẩm phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân như cuốc, xẻng, dao, cày bừa, vải mặc… Tuy nhiên tình hình sản xuất thủ công nghiệp vẫn còn nhiều hạn chế do cơ sở vật chất sơ sài, thiếu vốn, thiếu nguyên vật liệu, kỹ thuật còn thấp. Thu nhập bình quân lao động thủ công nhìn chung còn ở mức thấp. Năm 1960, thợ sơn mài có lương bình quân là 50 đồng, thợ rèn Đa Hội là 45 đồng, thợ dệt vải là 26 đồng… Một số hợp tác xã trong huyện đã thực hiện chế độ ban quản, tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm

Tình hình văn hóa- xã hội và an ninh, quốc phòng. Sau 3 năm thực hiện kế hoạch nhà nước, cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế, đời sống nhân dân khá hơn trước, các mặt hoạt động văn hóa, văn nghệ được phục hồi và phát triển.

Văn hóa, văn nghệ: thời kỳ này mỗi làng đều có một đội văn nghệ nghiệp dư, phục vụ dân làng trong các dịp lễ hội. Các thể loại văn nghệ quần chúng như hát tuồng, quan họ, hát chèo, cải lương, diễn kịch, ngâm thơ… phát triển sôi nổi khắp nơi. Thơ, ca, nhạc, kịch… ca ngợi cuộc sống mới và phong trào sản xuất, tập thể hóa khá phong phú và sôi động. Năm 1960, tổ chức hội diễn văn nghệ quần chúng toàn huyện, có 30 đội văn nghệ quần chúng tham dự với 71 tiết mục. Ngành văn hóa còn tổ chức các buổi biểu diễn văn công cho 29.000 lượt người xem. Đội chiếu bóng phục vụ 144 buổi chiếu.

Sự nghiệp giáo dục: năm 1959 toàn huyện thanh toán nạn mù chữ được 770 người. Bổ túc văn hóa hè 1959 có 664 lớp, 9.989 người đi học, trong đó phần lớn là đội ngũ cán bộ xã. Giáo dục phổ thông cũng được mở mang. Số học sinh đến trường ngày càng tăng. Năm 1960, toàn huyện có: cấp I: 9.784 học sinh, cấp II: 1.764 học sinh, cấp III: 220 học sinh. Học sinh vỡ lòng được phổ cập ở 18 xã và thị trấn, các em trong độ tuổi từ 6-11 tuổi đều đến lớp.

Công tác y tế: huyện đã quan tâm xây dựng mạng lưới y tế cơ sở, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ y tế (y tá, hộ sinh) cho cơ sở. Năm 1960, đào tạo 270 cán bộ y tế, có 85 hợp tác xã trong huyện có cán bộ y tế. Phong trào vệ sinh phòng bệnh được phát động rộng rãi khắp các địa phương. Năm 1960, toàn huyện đào mới 65 giếng nước, làm 42 hố xí hai ngăn ở nông thôn. Tổ chức tiêm phòng cho 12.938 người.

Công tác quân sự: thực hiện chỉ thị của Trung Đảng về công tác quân sự địa phương, Huyện ủy đẩy mạnh việc củng cố, phát triển lực lượng dân quân, tự vệ và tăng cường công tác giáo dục chính trị cho lực lượng quân sự địa phương. Cuối năm 1958, toàn huyện triển khai đăng ký quản lý thanh niên trong độ tuổi vào lực lượng hậu bị quân đội. Hàng năm huyện tổ chức tốt các đợt huấn luyện quân sự cho lực lượng dân quân tự vệ, hoàn thành việc khám tuyển và gọi thanh niên nhập ngũ làm nghĩa vụ quân sự. Năm 1960, toàn huyện mở đợt chỉnh huấn cho lực lượng dân quân, tự vệ toàn huyện học tập về Luật nghĩa vụ quân sự, tài liệu về chiến tranh nhân dân, quán triệt chủ trương của Trung ương Đảng về củng cố xây dựng lực lượng quốc phòng.

Công tác an ninh: thi hành chủ trương của Trung ương và của tỉnh, huyện tiếp tục tiến hành công tác cải tạo 2.502 tề ngụy, 61 gián điệp, đưa ra kiểm điểm trước chính quyền và nhân dân, một số tên nguy hiểm bị bắt tập trung cải tạo. Phong trào bảo vệ trị an được phát động rộng rãi trong toàn huyện. Có 111 thôn (196 xóm) đã xây dựng được quy ước “ba phòng”. Tình hình trật tự, trị an trong huyện được ổn định. Các tệ nạn xã hội như cờ bạc, trộm cướp… giảm hẳn.

Công tác xây dựng đảng, chính quyền và đoàn thể quần chúng. Sau Đại hội Đảng bộ huyện (12-1958), các cơ sở tiến hành đại hội xác định nhiệm vụ chính trị, kiện toàn tổ chức, bầu cấp ủy mới. Tháng 5-1960, Đảng bộ huyện tổ chức Đại hội, kiểm điểm tình hình công tác nhiệm kỳ qua và đề ra phương hướng nhiệm kỳ mới. Đại hội bầu Ban Chấp hành do đồng chí Nguyễn Đức Thành làm Bí thư. Huyện ủy Từ Sơn chú trọng công tác phát triển đảng. Qua các phong trào thi đua sản xuất, nhiều quần chúng ưu tú được kết nạp vào Đảng. Năm 1960, đã kết nạp được 124 đảng viên mới, chuyển chính thức cho 110 đồng chí.

Qua các đợt chỉnh huấn, học tập đường lối cách mạng của Đảng, thảo luận về hai con đường, cán bộ đảng viên trong huyện được nâng cao về nhận thức tư tưởng, càng thêm tin tưởng vào chế độ mới.

Gắn liền với việc củng cố xây dựng tổ chức đảng, Huyện ủy còn quan tâm, củng cố bộ máy chính quyền, các đoàn thể quần chúng. Các xã tổ chức tốt cuộc bầu cử hội đồng nhân dân và ủy ban hành chính xã đảm bảo nguyên tắc dân chủ. Các đoàn thể quần chúng tiến hành đại hội để kiện toàn tổ chức. Đoàn thanh niên lao động huyện có 2.065 đoàn viên. Hầu hết các xã, thôn, trường học, cơ quan, công trường đều có tổ chức thanh niên. Hội phụ nữ cũng được kiện toàn từ huyện đến xã. Lực lượng thanh niên, phụ nữ huyện đã thực sự giữ vai trò nòng cốt trong phong trào thi đua sản xuất, công tác. Đã xuất hiện hàng trăm kiện tướng, lao động tiên tiến trên các mặt công tác và sản xuất như làm thủy lợi, làm phân xanh, áp dụng khoa học kỹ thuật…

Sau 3 năm (1958-1960) thực hiện kế hoạch nhà nước, Đảng bộ và nhân dân huyện Từ Sơn đã đoàn kết khắc phục khó khăn, nỗ lực phấn đấu đẩy mạnh mọi mặt sản xuất và đã thu được những thắng lợi to lớn. Phong trào hợp tác hóa nông nghiệp căn bản hoàn thành. Trên 90% nông dân trong huyện đã vào hợp tác xã nông nghiệp, đi theo con đường làm ăn tập thể. Công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thủ công nghiệp và tiểu thương cũng đạt kết quả tốt. Hệ thống hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng được hình thành và phát triển. Sản xuất nông nghiệp tăng về diện tích, năng suất, sản lượng. Đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân trong huyện được cải thiện. Huyện Từ Sơn thực hiện đóng thuế nông nghiệp và làm nghĩa vụ với Nhà nước đảm bảo kế hoạch. Hoàn thành kế hoạch ba năm (1958-1960) là bước mở đầu trên con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng bộ và nhân dân huyện Từ Sơn.

3. Đảng bộ huyện Từ Sơn lãnh đạo thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1960-1963)

Tháng 9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng được tổ chức tại thủ đô Hà Nội. Đại hội đề ra hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta thời kỳ này là: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đối với miền Bắc, Đại hội vạch ra kế hoạch 5 năm với mục tiêu trọng tâm là thực hiện một bước công nghiệp hóa, xây dựng cơ sở ban đầu của chủ nghĩa xã hội, hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa.

Trước tình hình và nhiệm vụ mới của cách mạng, Đảng bộ huyện Từ Sơn nhanh chóng kiện toàn tổ chức, đẩy mạnh công tác xây dựng đảng, lãnh đạo nhân dân ra sức thi đua phát triển kinh tế và phong trào hợp tác hóa.

Ngày 25-9-1961, Huyện ủy Từ Sơn họp hội nghị, ra nghị quyết chuyển hai đồng chí ủy viên dự khuyết lên chính thức là đồng chí Nguyễn Chu Bính và đồng chí Nguyễn Văn Đạt. Hội nghị bầu đồng chí Dương Thọ Chuyền làm Bí thư Huyện ủy. Đồng chí Tạ Đức Lãng (Phó Văn phòng Tỉnh ủy) được điều động về bổ sung vào Huyện ủy và được phân công giữ chức Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện Từ Sơn. Huyện ủy lãnh đạo các cấp, các ngành củng cố, chấn chỉnh bộ máy chính quyền, đoàn thể từ huyện đến cơ sở.

Ngày 14-12-1961, Đảng bộ và nhân dân huyện Từ Sơn vinh dự được đón Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dịp Người về thăm trường Đại học Thể dục thể thao Trung ương I tại làng Trang Liệt.

Trong 2 năm 1961-1962, sản xuất nông nghiệp và phong trào hợp tác hóa trong huyện có nhiều khó khăn do hạn hán, mưa úng ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp. Năng suất, sản lượng lương thực giảm sút. Đời sống nhân dân một số nơi gặp khó khăn. Một số nơi nông dân xin ra hợp tác xã, như ở Yên Lã, Đồng Nguyên có đến 50% hộ xin ra ngoài để làm nghề phụ hoặc buôn bán.

Cuối năm 1962, Bộ Chính trị ra nghị quyết về Cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật, nhằm củng cố phong trào, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Thực hiện chủ trương của Trung ương và của Tỉnh ủy, từ mùa xuân năm 1963, Huyện ủy Từ Sơn triển khai cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã. Một số hợp tác xã của huyện được tiến hành đợt đầu như Trịnh Xá, Vĩnh Kiều, Trang Liệt, Dương Lôi… Trong đợt cải tiến này huyện đã củng cố, ổn định bộ máy quản lý hợp tác xã và điều chỉnh, nâng cấp hợp tác xã theo quy mô thôn và liên thôn có trung bình trên dưới 100 hộ xã viên. Hai hợp tác xã có quy mô lớn được cải tiến là Dương Lôi, Trang Liệt, có trên 300 hộ xã viên. Ở những đơn vị thực hiện cải tiến quản lý đợt đầu phong trào có tiến bộ và được ổn định. Đến giữa năm 1963, phong trào được mở rộng trong toàn huyện.

Cùng với phong trào sản xuất, sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội cũng ngày càng được quan tâm, xây dựng. Hầu hết các xã đều có trường cấp I, nhiều xã có trường cấp II, cả huyện có 1 trường cấp III với trên 350 học sinh. Phong trào bổ túc văn hóa, xóa nạn mù chữ cho cán bộ và nhân dân được đẩy mạnh. Công tác y tế chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được coi trọng, đội ngũ cán bộ y tế từ thôn, đội đến trạm xá xã và y tế huyện được chú trọng đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ. Tất cả các xã đều có trạm y tế xã, đa số các hợp tác xã đều có tủ thuốc, y tế thôn, đội sản xuất. Phong trào phòng chống dịch bệnh, trồng cây thuốc nam phát triển mạnh mẽ. Công tác xây dựng đời sống văn hóa mới, nếp sống mới được chú trọng.

Ngày 26, 27-10-1962, Ban Thường vụ Huyện ủy Từ Sơn họp Hội nghị đề ra chủ trương đưa đảng viên trong độ tuổi vào lực lượng dân quân tự vệ, xã nào có bảy cấp ủy viên thì phân công một đồng chí phụ trách quân sự. Dân quân, tự vệ hằng năm hoàn thành kế hoạch luyện tập quân sự và học tập chính trị, trở thành lực lượng nòng cốt trong sản xuất, giữ gìn trật tự an ninh thôn xóm.

Năm 1962, Tỉnh ủy Bắc Ninh chỉ đạo các đảng bộ huyện tiến hành chuyển một số chi bộ xã có đông đảng viên thành đảng bộ xã. Huyện ủy mở các đợt chỉnh huấn, tổ chức cho cán bộ, đảng viên toàn huyện quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện, học tập về đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, các chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh ủy, Huyện ủy về cải tiến quản lý hợp tác xã.

Trong 2 ngày 12 và 13-2-1963, Đảng bộ huyện Từ Sơn tiến hành Đại hội kiểm điểm thực hiện nhiệm vụ của nhiệm kỳ trước và bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện. Đại hội bầu 9 ủy viên chính thức: gồm các đồng chí Nguyễn Đình Khôi, Tạ Đức Lãng, Phạm Đăng Kiểm, Nguyễn Chu Bính, Nguyễn Văn Thúy, Bùi Văn Khâm, Nguyễn Văn Vũ, Nguyễn Như Chơn, Nguyễn Văn Đạt và Đồng chí Nguyễn Đức Biểu làm ủy viên dự khuyết. Tuy nhiên, do sáp nhập huyện Từ Sơn và huyện Tiên Du thành huyện Tiên Sơn nên chưa bầu Bí thư, Ban Thường vụ Huyện ủy.

Sau 2 năm (1961-1962), bước đầu thực hiện kế hoạch 5 năm  Đảng bộ và nhân dân Từ Sơn đã đạt được những thành tựu quan trọng trên mọi mặt của đời sống xã hội. Đó là tiền đề quan trọng để Đảng bộ và nhân dân Từ Sơn cùng với Đảng bộ và nhân dân Tiên Sơn tiếp tục thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ nhất theo tinh thần Đại hội lần thứ III của Đảng ta.

II. ĐẢNG BỘ HUYỆN TIÊN SƠN ĐƯỢC THÀNH LẬP, LÃNH ĐẠO TIẾP TỤC THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT (1963-1965)

1. Đảng bộ, chính quyền huyện Tiên Sơn được thành lập

Thực hiện chủ trương của Quốc hội về việc điều chỉnh đơn vị hành chính cấp huyện, tỉnh, ngày 27-10-1962, Quốc hội khóa II quyết định hợp nhất hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang thành tỉnh Hà Bắc. Tỉnh Hà Bắc chính thức đi vào hoạt động theo đơn vị hành chính mới từ ngày 01-4-1963.

Ngày 14-3-1963, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 25-QĐ/CP về việc sáp nhập hai huyện Từ Sơn và Tiên Du, lấy tên là huyện Tiên Sơn. Theo đó, huyện Tiên Sơn gồm thị trấn Từ Sơn và 27 xã.

Cũng với việc thành lập huyện Tiên Sơn, Đảng bộ huyện Tiên Sơn cũng được thành lập. Căn cứ vào quyết định số 25-QĐ/CP, ngày 14-3-1963 của Chính phủ, xét điều kiện, hoàn cảnh hiện tại, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh ra Nghị quyết số 73-NQ/TU, ngày 23-3-1963 về việc hợp nhất hai Ban Chấp hành huyện Đảng bộ Tiên Du và Từ Sơn thành Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Tiên Sơn; Chỉ định đồng chí Nguyễn Đức Thành làm Bí thư Huyện ủy, đồng chí Nguyễn Văn Bổng làm Phó Bí thư Huyện ủy và ủy viên thường vụ gồm các đồng chí: Nguyễn Đình Khôi, Tạ Đức Lãng, Phạm Đăng Kiểm, Nguyễn Văn Loát và Nguyễn Văn Cẩn.

Do địa giới hành chính một số xã thay đổi, chuyển đồng chí Nguyễn Văn Đạt, huyện ủy viên, Bí thư xã Đông Thọ (Từ Sơn cũ) và đồng chí Nguyễn Văn Biểu, huyện ủy viên dự khuyết phụ trách xã Văn Môn (Từ Sơn cũ) sang tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Yên Phong, đồng chí Nguyễn Văn Phong, huyện ủy viên huyện Yên Phong, Bí thư Đảng ủy xã Tương Giang, tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Tiên Sơn. Dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy Tiên Sơn, các cơ quan đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng của huyện nhanh chóng ổn định và làm việc theo đơn vị hành chính mới.

Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Hà Bắc, từ 11 đến 14-10-1964, Đảng bộ huyện Tiên Sơn tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ I. Tham dự Đại hội có 152 đại biểu, gồm 121 đại biểu chính thức, 15 đại biểu dự khuyết và 16 đại biểu dự thính. Về dự và chỉ đạo Đại hội có các đồng chí Nguyễn Văn Trân, Bí thư Trung ương Đảng, Thiếu tướng Lê Quang Đạo, Lê Quang Tuấn (Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp), Trần Trung (Bí thư Tỉnh ủy) và hai đại biểu huyện Cần Giuộc (Nam Bộ, huyện kết nghĩa của Tiên Sơn). Đại hội đã thảo luận Báo cáo chính trị, đề ra phương hướng, nhiệm vụ của nhiệm kỳ mới và bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ huyện gồm 21 ủy viên (19 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết).

Ngày 17-10-1964, Ban Chấp hành họp phiên đầu tiên, bầu đồng chí Nguyễn Đức Thành làm Bí thư Huyện ủy, đồng chí Nguyễn Đình Khôi làm Phó Bí thư, Ban Thường vụ Huyện ủy có 5 đồng chí, Ủy ban kiểm tra có 2 ủy viên.

Huyện ủy Tiên Sơn nhanh chóng ổn định tổ chức bộ máy chính quyền, đoàn thể, phân công cấp ủy phụ trách các ngành, khối và các đơn vị cơ sở.

2. Đảng bộ huyện Tiên Sơn lãnh đạo tiếp tục thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1963-1965)

Trong phát triển kinh tế, tiếp tục củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất, Huyện ủy lãnh đạo, chỉ đạo các địa phương thực hiện tốt đợt cải tiến quản lý hợp tác xã nông nghiệp. Sau năm đợt cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật, phong trào xây dựng hợp tác xã nông nghiệp của huyện đã được củng cố mạnh hơn.

Sản xuất nông nghiệp đã có nhiều tiến bộ và đạt được kết quả tốt. Tổng diện tích gieo trồng (1963-1964): 58.661,4 ha; tổng sản lượng lương thực: 43.876 tấn; bình quân lương thực đầu người: 356kg/năm; hệ số quay vòng ruộng đất nông nghiệp: 1,62 lần.

Phong trào trồng cây được phát động mạnh mẽ trong toàn huyện. Năm 1964 cả huyện trồng được 130.332 cây xanh, đạt 90% kế hoạch. Các xã Đồng Nguyên, Tương Giang… vượt mức huyện giao. Một số xã có phong trào khá là Minh Đức, Nghĩa Khê Tiến, ở xã Minh Đức các thôn đều có vườn cây kết nghĩa Tiên Sơn-Cần Giuộc.

Công tác thủy lợi: hưởng ứng các phong trào thi đua làm thủy lợi do tỉnh phát động, hàng năm huyện Tiên Sơn tập trung nhân lực phục vụ cho công tác thủy lợi cải tạo đồng ruộng, chống úng, hạn… Tháng 12-1964, Tỉnh ủy Hà Bắc phát động phong trào thi đua làm thủy lợi “quyết khai thông trạm bơm Trịnh Xá để trả thù cho liệt sỹ Nguyễn Văn Trỗi”, hàng vạn thanh niên, dân công các huyện, các đơn vị bộ đội, công nhân… về Trịnh Xá đào đắp kênh mương, với khí thế thi đua lao động “mỗi người làm việc bằng hai để trả thù cho liệt sỹ Nguyễn Văn Trỗi”. Năm 1964, toàn huyện thành lập 105 đội thủy lợi chuyên trách, trong đó có 196 đảng viên tham gia. Toàn huyện đã đào đắp 528.705 m3 đất.

Năm 1964, cửa hàng nông sản của huyện phục vụ nông dân giống, cây trồng, vật tư, phân bón được thành lập. Hợp tác xã mua bán mặc dù nguồn vốn hạn hẹp, nhưng hai năm 1963-1964 đã phục vụ tốt nhu cầu tiêu dùng trong nhân dân. Ngân hàng huyện tập trung vốn đầu tư cho sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Năm 1964, ngân hàng cho nông nghiệp vay 501.853 đồng; cho tiểu thủ công nghiệp vay 544.709 đồng.

Các ngành xây dựng cơ bản, giao thông, bưu điện… cũng có nhiều cố gắng, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.

Về giáo dục, sự nghiệp giáo dục của Tiên Sơn trong thời kỳ 1963-1965 phát triển và đạt được nhiều thành tích đáng kể. Số trường lớp được mở mang thêm, học sinh đến trường ngày càng tăng, chất lượng giáo dục được nâng cao. Năm học 1963-1964, cấp I có 318 lớp, 12.623 lớp, tăng lên 329 lớp với 13.726 học sinh năm học 19634-1965. Cấp II, tăng từ 85 lớp, 3.729 học sinh lên 95 lớp với 4.121 học sinh và cấp III tăng từ 8 lớp với 396 học sinh lên 9 lớp với 442 học sinh. Ngành giáo dục toàn huyện phát động phong trào thi đua “hai tốt” trong các nhà trường. Trường cấp I, II Liên Sơn (nay là Tam Sơn), phát động phong trào thi đua “nghìn việc tốt” do nhà giáo Nguyễn Đức Thìn khởi xướng, đã trở thành điển hình của phong trào thi đua toàn tỉnh trong lực lượng thiếu nhi, học sinh.

Ngành y tế: năm 1964 toàn huyện xây dựng được bốn trạm y tế xã, trong đó có trạm xã Đồng Kỵ, Nghĩa Khê Tiến, các địa phương khác đã có trạm xá tiếp tục củng cố, mở mang thêm để phục vụ nhân dân. Đến cuối năm 1964, toàn huyện có 138 hợp tác xã có y tá, huyện đã mở 25 cửa hàng dược để phục vụ nhân dân. Huyện tiếp tục đào tạo y tá, hộ sinh cho các trạm xá xã, sau khi tốt nghiệp đã về phục vụ tại xã Đình Bảng, Phù Chẩn, Đồng Nguyên, Liên Sơn. Công tác phòng, chữa bệnh được chú trọng. Năm 1964, ngành y tế huyện phát động nhân dân làm thêm 421 hố xí hai ngăn, đào thêm 280 giếng nước.

Phong trào văn nghệ quần chúng diễn ra thường xuyên, đặc biệt là vào các dịp lễ hội. Thanh, thiếu niên có phong trào thể dục buổi sáng rèn luyện sức khỏe và chạy, nhảy, vật…

Về công tác xây dựng Đảng, tính đến tháng 5-1964, toàn huyện Tiên Sơn có 2.056 đảng viên, 45 chi bộ, đảng bộ; gồm có 17 đảng bộ cơ sở, 10 chi bộ xã, 110 chi bộ nhỏ. 24 đảng bộ có từ 50 đảng viên trở lên; tám chi bộ dưới 10 đảng viên; 10 chi bộ có từ 10-15 đảng viên. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, từ năm 1964 Đảng bộ huyện phát động cuộc vận động xây dựng chi, đảng bộ “4 tốt”, coi đây là nội dung trọng tâm của công tác xây dựng đảng, lấy các tiêu chuẩn “4 tốt” để đánh giá, phân loại chất lượng đảng viên và tổ chức đảng. Huyện ủy kết hợp công tác củng cố các chi, đảng bộ yếu kém với cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã. Qua các đợt củng cố, nhiều chi, đảng bộ từ yếu kém đã phấn đấu trở thành khá. Tính đến tháng 5-1965, Tiên Sơn có 31 chi bộ, bốn tổ đảng đạt tiêu chuẩn “4 tốt”.

Trong thời kỳ 1963-1965, Đoàn Thanh niên huyện sôi nổi hưởng ứng các phong trào thi đua do Trung ương Đoàn và Tỉnh Đoàn phát động; hàng nghìn thanh niên trong huyện đăng ký tham gia phong trào “thanh niên tình nguyện vượt mức kế hoạch 5 năm”. Đoàn viên, thanh niên đã thể hiện vai trò tiền phong, gương mẫu, làm nòng cốt trong lực lượng dân quân, tự vệ, trong các phong trào thi đua làm thủy lợi, làm phân bón, làm bèo hoa dâu… Hằng năm có hàng trăm thanh niên đạt danh hiệu lao động tiên tiến, kiện tướng…, nhiều thanh niên ưu tú đã được kết nạp vào Đảng. Hội phụ nữ huyện xây dựng hệ thống tổ chức chặt chẽ từ huyện đến xã, là lực lượng lao động đông đảo, đã có nhiều cố gắng trong lao động sản xuất và các mặt công tác xã hội. Mặt trận Tổ quốc huyện lãnh đạo tổ chức cơ sở đoàn kết toàn dân, thi đua lao động, phát triển kinh tế, thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước.

Sau 3 năm (1963-1965) nỗ lực phấn đấu, hoàn thành kế hoạch nhà nước, tình hình kinh tế-xã hội của huyện đã có sự thay đổi lớn về mọi mặt. Phong trào hợp tác hóa được củng cố, sản xuất nông nghiệp có nhiều tiến bộ. Năng suất, sản lượng lương thực ngày càng tăng, đời sống nhân dân ổn định và có bước cải tiến. An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện được giữ vững. Đó là những tiền đề quan trọng để Tiên Sơn vững bước vào giai đoạn mới của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

III. ĐẢNG BỘ HUYỆN TIÊN SƠN LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1965-1975)

1. Chuyển hướng phát triển kinh tế sang thời chiến, chống chiến tranh phá hoại thứ nhất của đế quốc Mỹ (1965-1968)

Năm 1965, giặc Mỹ ồ ạt đưa quân xâm lược miền Nam, đồng thời mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ác liệt ở miền Bắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu chân lý bất hủ: “không có gì quý hơn độc lập tự do”, kêu gọi nhân dân cả nước anh dũng chống Mỹ, cứu nước, bảo vệ độc lập dân tộc. Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 11 và 12, ra Nghị quyết nêu rõ: chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc ta. Miền Bắc là hậu phương lớn, vừa phải xây dựng chủ nghĩa xã hội, chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, vừa phải tích cực chi viện cho cách mạng miền Nam. Ngày 27-3-1965, Tỉnh ủy Hà Bắc ra Nghị quyết về động viên thời chiến, tháng 4-1965, Tỉnh ủy ra Nghị quyết về công tác phòng không nhân dân.

Thực hiện chủ trương của tỉnh, Huyện ủy Tiên Sơn đã ra Nghị quyết về công tác phòng không sơ tán, sẵn sàng chiến đấu, đồng thời lãnh đạo khẩn trương xây dựng lực lượng, động viên toàn dân đóng góp cho kháng chiến, thanh niên hăng hái vào bộ đội, thanh niên xung phong và dân quân tự vệ.

Về công tác phòng không, đến tháng 3-1965, toàn huyện đào đắp được 13.298 hầm trú ẩn, 597 hầm chiến đấu, 154 ụ bắn máy bay. Thực hiện chủ trương của tỉnh, cuối năm 1965, thị trấn Từ Sơn đã sơ tán 100% trẻ em, cụ già.

Ban chỉ huy chiến đấu của huyện được thành lập do đồng chí Bí thư Huyện ủy làm trưởng ban. Các tổ, đội chuyên môn phục vụ chiến đấu được thành lập từ huyện đến xã. Toàn huyện có 71 tổ bắn máy bay, 69 tổ gác máy bay, 24 tổ trinh sát liên lạc. Năm 1965, huyện Tiên Sơn tổ chức ba đợt tuyển quân gọi nhập ngũ 2.346 người và 454 quân dự bị.

Với tinh thần “mỗi làng là một pháo đài” chống Mỹ, cuối năm 1965, huyện triển khai việc xây dựng làng chiến đấu. Tính đến tháng 9-1965, toàn huyện đào được 15.000 hầm phòng không, 17.710m giao thông hào. Huyện đã thành lập các đại đội cơ động ở địa phương, củng cố các ban chỉ huy xã đội, đưa 22 cấp ủy viên ở xã vào làm chính trị viên trung đội dân quân tự vệ.

Trong không khí cả nước có chiến tranh, Đoàn thanh niên huyện dấy lên các phong trào thi đua sôi nổi, thể hiện vai trò tiên phong của tuổi trẻ, như các phong trào thi đua: “ba sẵn sàng”, “chắc tay cày, vững tay súng…”, “tay búa, tay súng”. Trong phong trào thi đua “ba sẵn sàng”, đến tháng 3-1965, toàn huyện có 6.217 đoàn viên đăng ký tham gia, đến tháng 7-1965, toàn huyện có 8.100 thanh niên “ba sẵn sàng”. Giữa tháng 9-1965, Huyện đoàn phát động phong trào thi đua “quyết tâm thực hiện lời Bác dạy”, đẩy mạnh sản xuất, sẵn sàng chiến đấu. Hội Phụ nữ huyện phát động phong trào “phụ nữ ba đảm đang” chống Mỹ, cứu nước với các nội dung: đảm nhiệm việc gia đình cho chồng con yên tâm chiến đấu; đảm nhiệm việc phục vụ chiến đấu và chiến đấu khi cần thiết. Tính đến giữa năm 1965, toàn huyện có 6.834 chị em đăng ký “ba đảm đang”. Đến cuối năm có 10.096 chị đăng ký, trong đó có 545 phụ nữ tình nguyện đi chiến đấu. Phụ nữ toàn huyện đã lập được 689 “hũ gạo kháng chiến”. Mặt trận Tổ quốc huyện đã mở các cuộc vận động nhân dân ủng hộ “quỹ nuôi quân”. Giới phụ lão huyện thành lập các đội “bạch đầu quân”, tích cực đóng góp cho kháng chiến.

Chiến tranh phá hoại của Mỹ ra miền Bắc và huyện Tiên Sơn ngày càng ác liệt. 15 giờ ngày 8-10-1966, ba máy bay Mỹ ném bom tàn phá các xã Đồng Quang, Châu Khê (Từ Sơn) làm chết 11 người, làm bị thương 45 người, thiệt hại nhiều tài sản của nhân dân. Sau khi chiến sự xảy ra, Huyện ủy đã cử cán bộ về thăm hỏi, động viên, giải quyết hậu quả, tổ chức cứu giúp nhân dân, hạn chế thiệt hại.

Trong không khí đón mừng Xuân Đinh Mùi, thi đua sản xuất sẵn sàng chiến đấu, ngày 9-2-1967 (mồng một tết Đinh Mùi) Bác Hồ về thăm Hà Bắc. Tại Tam Sơn, hơn 400 đại biểu đại diện cho Đảng bộ và nhân dân toàn tỉnh phấn khởi đón Bác. Trước những thành tích của Đảng bộ và nhân dân Tiên Sơn, đặc biệt là phong trào “nghìn việc tốt” được dấy lên từ quê hương Tam Sơn, Bác động viên, khuyến khích huyện Tiên Sơn thi đua với Thái Bình phấn đấu 5 tấn thóc/1 ha gieo trồng.

Từ ngày 14 đến ngày 17-3-1967, Đảng bộ huyện Tiên Sơn tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ II. Đại hội đã thông qua báo cáo chính trị, phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của nhiệm kỳ mới và bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 25 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Tại phiên họp đầu tiên, Ban chấp hành bầu Ban Thường vụ Huyện ủy 9 đồng chí, bầu đồng chí Nguyễn Thừa Kế giữ chức Bí thư, đồng chí Nguyễn Thế Bổng và Nguyễn Đình Khôi giữ chức Phó Bí thư Huyện ủy.

Sau Đại hội Đảng bộ, Huyện ủy phát động phong trào thi đua làm theo lời Bác, đẩy mạnh mọi mặt sản xuất, chiến đấu. Huyện chỉ đạo các địa phương làm tốt công tác phòng không, sẵn sàng chiến đấu đối phó với cuộc chiến tranh phá hoại ngày càng ác liệt của giặc Mỹ.

Thực hiện Chỉ thị 144 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc tổ chức một tháng đẩy mạnh công tác phòng không nhân dân từ ngày 20-3 đến 20-4-1967, toàn huyện đã tổ chức được  92 đội tải thương, 144 tổ cứu thương, 311 tổ phá bom, 124 đội cứu sập hầm, 49 tổ phòng hỏa, 112 đội cứu hỏa, đào được 4.605 hầm trú ẩn, 5.500 hố cá nhân, 1.950m giao thông hào. Tính đến cuối năm 1967, bình quân mỗi gia đình trong nhà có 1,5 hầm trú ẩn, mỗi lao động có một hố phòng không ngoài đồng; 100% học sinh đi học có mũ rơm và túi thuốc cứu thương; các lớp học đều có giao thông hào và hầm trú ẩn.

Năm 1967, máy bay Mỹ đánh phá 9 lần vào 11 xã trong huyện, bắn rốc két vào 13 điểm dân cư; có nơi chúng đánh từ hai đến bốn lần như Đình Bảng, thị trấn Từ Sơn, Đồng Quang. Địch thả 1580 quả bom phá, 50 quả bom bi mẹ, bắn 25 quả tên lửa trên địa bàn huyện làm nhiều người chết, bị thương, làm cháy 240 gian nhà.

Lực lượng bộ đội phòng không, dân quân, tự vệ các địa phương chiến đấu dũng cảm đánh trả máy bay địch, quân và dân trong huyện đã bắt sống bốn giặc lái Mỹ. Phong trào thi đua “quyết thắng” được phát động sôi nổi trong lực lượng dân quân tự vệ. Năm 1967 có một xã và tám trung đội được công nhận là đơn vị “quyết thắng”, trong đó có hai trung đội nữ.

Nhiệm vụ tuyển quân được Huyện ủy coi trọng và chỉ đạo chặt chẽ. Năm 1967, toàn huyện có 1.145 thanh niên trúng tuyển vào bộ đội. Năm 1968, với khí thế sôi sục của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, tuổi trẻ Tiên Sơn náo nức tình nguyện nhập ngũ, lên đường “xẻ dọc Trường Sơn đi đánh Mỹ”. Hàng ngàn thanh niên của huyện đã nhập ngũ, chi viện tích cực về sức người cho cách mạng miền Nam và chiến trường khác. Nhiều gia đình đã có từ hai con trở lên vào bộ đội.

Tháng 11-1968, Mỹ tuyên bố ngừng ném bom bắn phá miền Bắc nước ta, nhưng Đảng bộ và nhân dân Tiên Sơn không ngừng nêu cao cảnh giác, tiếp tục củng cố, xây dựng lực lượng, đẩy mạnh mọi mặt sản xuất, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quê hương, tích cực chi viện sức người, sức của cho cách mạng miền Nam.

Vừa lãnh đạo toàn dân đoàn kết chiến đấu, chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, Đảng bộ Tiên Sơn còn lãnh đạo nỗ lực phấn đấu, ra sức thi đua sản xuất, đẩy mạnh mọi mặt công tác. Năm 1966, mở đầu kế hoạch hai năm chuyển hướng phát triển kinh tế, được Tỉnh ủy coi là năm phải có “sự chuyển biến mới về kỹ thuật, tiến tới cao trào trong sản xuất”. Hội đồng nhân dân huyện khóa III đã xác định rõ nhiệm vụ, phương hướng và mục tiêu phấn đấu của toàn huyện và nhấn mạnh: “Năm 1966, phải quyết tâm xây dựng huyện Tiên Sơn trở thành đơn vị sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi”. Trong sản xuất nông nghiệp, huyện chỉ đạo các hợp tác xã không ngừng mở mang diện tích, đẩy mạnh thâm canh, đưa các loại giống mới vào sản xuất, tích cực áp dụng khoa học, kỹ thuật nhằm tăng năng suất cây trồng, vật nuôi. Phấn đấu đạt năng suất 5 tấn thóc trên 1 ha gieo trồng đã trở thành mục tiêu chính trị của Đảng bộ và nhân dân toàn huyện.

Trong thời kỳ này, gắn liền với nhiệm vụ sản xuất nông nghiệp, công tác thủy lợi được đặc biệt coi trọng “là biện pháp hàng đầu” để phát triển sản xuất nông nghiệp trong toàn huyện. Hàng năm nhân dân địa phương tích cực đóng góp nghĩa vụ dân công, tham gia đắp đê chống lụt, đào đắp kênh mương, bờ vùng, bờ thửa… phục vụ cho việc tưới tiêu, đảm bảo sản xuất. Năm 1965, toàn huyện đào đắp được 1.297.399m2 và chín tháng đầu năm 1966, toàn huyện đào đắp được 200.700 m2 đất của các công trình thủy lợi. Cuối năm 1966, Tỉnh ủy Hà Bắc phát động chiến dịch “toàn dân ra tay làm thủy lợi”, mở chiến dịch Bạch Đằng, đào đắp sông Đồng Khởi ở huyện Gia Lương. Hàng ngàn đoàn viên, thanh niên, dân quân của huyện hăng hái tham gia làm thủy lợi tại mặt trận Bạch Đằng (Gia Lương). Tính đến ngày 5-1-1967, sơ kết chiến dịch công dân, huyện Tiên Sơn đã hoàn thành 171% kế hoạch.

Công tác củng cố hợp tác xã nông nghiệp được Huyện ủy quan tâm thường xuyên và chỉ đạo sát sao. Năm 1965, toàn huyện có 43 hợp tác xã chuyển lên bậc cao, phát triển được 721 hộ xã viên. Năm 1966, cả huyện có 83 hợp tác xã, trong đó có 72 hợp tác xã cấp cao. Tổng số hộ nông dân đã vào hợp tác xã là 22.529 hộ, đạt 94% hộ nông dân. Qua các đợt cải tiến quản lý hợp tác xã, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp ngày càng được hoàn thiện.

Với những nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ và nhân dân, sản xuất của huyện hai năm 1966, 1967 đã có những tiến bộ vượt bậc. Năm 1966, toàn huyện đã có hai xã đạt năng suất trên 5 tấn trên 1 ha, đó là xã Tân Hồng và xã Đình Bảng. Đây là hai xã đầu tiên của tỉnh Hà Bắc đạt mục tiêu 5 tấn. Năm 1967 huyện Tiên Sơn đã trở thành ngọn cờ đầu đạt 5 tấn trên 1 ha của tỉnh Hà Bắc với chín trong tổng số 12 hợp tác xã của tỉnh đạt mục tiêu 5 tấn, gồm Dương Lôi, Nội Trì, Yên Lã, Phù Lưu, Đại Đình (Tân Hồng), Đình Bảng, Đình Tây (Đình Bảng), Kim Động (Minh Đức), Đa Hội (Châu Khê). Hợp tác xã Yên Lã (Tân Hồng) là đơn vị có năng suất lúa cao nhất tỉnh, đạt trên 7 tấn/1 ha. Riêng vụ mùa 1967, hợp tác xã Yên Lã đạt 4.005 tấn/1 ha.

Năm 1967, cả huyện có 15 xã đạt trên 5 tấn trong đó có chín xã thuộc Từ Sơn, gồm xã Tân Hồng: 6,25 tấn, Châu Khê: 6,127 tấn, Nghĩa Khê: 6,186 tấn, Đồng Nguyên: 6,033 tấn, Minh Đức: 6,158 tấn, Đồng Quang: 5,912 tấn, Đình Bảng: 5,691 tấn, Liên Sơn: 5,063 tấn và thị trấn Từ Sơn: 5,500 tấn. Huyện chỉ đạo năm 1968 các hợp tác xã đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất, phấn đấu toàn huyện đạt 5,5 tấn thóc, 9 tấn khoai, 2 con lợn trên 1 ha gieo trồng.

Về chăn nuôi: tính đến 1-10-1967, cả huyện có 32.243 con lợn, 5.988 con bò; 31 cơ sở, 54 tổ chuyên trách ươm cá giống.

Về sản xuất thủ công nghiệp: năm 1966, huyện đã chuyển hợp tác xã sơn mài Đình Bảng lên bậc cao, chuẩn bị về mặt tổ chức quản lý đưa các hợp tác xã sơn mài Tân Hồng, hợp tác xã gạch Giang Sơn, hợp tác xã Kiên Hưng lên bậc cao. Về sản xuất thủ công nghiệp: giá trị tổng sản lượng thủ công nghiệp năm 1965 đạt 3.548.671đ; năm 1966 đạt 4.800.000đ và năm 1967 đạt 5.200.000đ. Hợp tác xã Trịnh Tháp là đơn vị điển hình, có nhiều mặt hàng thủ công xuất khẩu. Tổng giá trị thủ công nghiệp năm 1966 đạt 4.800.000đ (104% kế hoạch). Năm 1967, huyện đã lập được 48 điểm cơ khí nhỏ.

Ngành thương nghiệp, tài chính, bưu điện, giao thông vận tải cũng có nhiều cố gắng phục vụ nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu, nhu cầu đời sống nhân dân. Năm 1967, ngân hàng Nhà nước huyện đã cho các hợp tác xã vay vốn để phát triển sản xuất, chăn nuôi… với tổng số tiền là 916.000đ, hợp tác xã tín dụng cho vay 1.313.216đ.

Sự nghiệp giáo dục ngày càng phát triển. Năm học 1967- 1968, các trường lớp học phải sơ tán, nhưng số học sinh đến lớp vẫn tăng hơn năm trước 1.419 học sinh. Công tác bổ túc văn hóa vẫn được duy trì. Đầu năm học 1966- 1967, cả huyện có 253 lớp với 4.252 học sinh. Đến tháng 12-1968, có 464 lớp với 8.803 học viên. Huyện còn tổ chức 32 lớp học “ba đảm đang” có 574 học viên. Công tác ý tế chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được coi trọng.

Hoạt động văn hóa thể thao: ngành văn hóa huyện phát động đợt thi sáng tác thơ, ca, xuất bản tập thơ ca phục vụ cho phong trào thi đua 5 tấn. Phong trào văn nghệ quần chúng “tiếng hát át tiếng bom” và các hoạt động thể thao cũng được phát động rộng rãi trong toàn huyện.

Trong nhưng năm (1985-1968) chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ, Đảng bộ và nhân dân Tiên Sơn nỗ lực phấn đấu, kiên trì xây dựng chủ nghĩa xã hội và giành được những thành tựu đáng kể trong sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, thể thao, giáo dục, y tế. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền có nhiều tiến bộ. Đời sống nhân dân ổn định, tình hình trị an ở địa phương được giữ vững.

2. Chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai, chi viện cho miền Nam kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1969-1975)

Cuối năm 1968, Mỹ buộc phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc. Đảng bộ huyện lãnh đạo nhân dân nhanh chóng phát triển sản xuất, phục hồi kinh tế.

Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, từ ngày 21 đến 24-4-1969, Đảng bộ huyện Tiên Sơn tổ chức Đại hội lần thứ III. Đại hội đã thảo luận và thông qua Nghị quyết xác định rõ mục tiêu: “Quyết tâm giữ vững và phát triển ngọn cờ 5 tấn, phấn đấu đạt mục tiêu 5,3 tấn thóc, 2 con lợn, 0,75 lao động trên 1 ha gieo trồng, tiến lên giành 6 tấn”; sản xuất lương thực, thực phẩm là nhiệm vụ hàng đầu, đồng thời đẩy mạnh tốc độ phát triển công nghiệp địa phương, thủ công nghiệp, đưa giá trị tổng sản lượng gấp đôi năm 1968. Đại hội coi công tác xây dựng đảng là nhiệm vụ then chốt, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng đảng bộ cơ sở và Huyện ủy “4 tốt”. Đại hội bầu Ban Chấp hành mới có 23 ủy viên chính thức và 1 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Nguyễn Thừa Kế được bầu lại làm Bí thư và các đồng chí Nguyễn Đình Khôi, Nguyễn Văn Vũ làm Phó Bí thư Huyện ủy.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ III, Huyện ủy đã ra các nghị quyết chuyên đề về sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi và các ngành kinh tế khác. Với sự chỉ đạo sát sao của Huyện ủy, các hợp tác xã nông nghiệp trong toàn huyện đẩy mạnh phong trào thi đua thâm canh tăng năng suất lúa. Hợp tác xã Yên Lã (Tân Hồng) nêu mục tiêu phấn đấu 10 tấn thóc/1 ha tại cánh đồng Mà Cháy, đồng Trong… Kết quả sản xuất nông nghiệp năm 1970 thu được thắng lợi lớn. Năng suất bình quân lúa toàn huyện đạt 23 tạ/1ha/1 vụ. Hợp tác xã Yên Lã đạt 8,345 tấn/1 ha cả năm.

Ngày 17-5-1971, Đảng bộ huyện Tiên Sơn tổ chức đại hội lần thứ IV. Tham dự đại hội có 145 đại biểu (136 đại biểu chính thức, 9 đại biểu dự khuyết). Đại hội bầu ra Ban Chấp hành gồm 19 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Tại phiên họp đầu tiên, Ban Chấp hành Đảng bộ bầu Ban Thường vụ 7 đồng chí, bầu đồng chí Nguyễn Thừa Kế giữ chức Bí thư, đồng chí Nguyễn Đình Khôi và Nguyễn Văn Vũ Phó Bí thư Huyện ủy.

Giữa lúc đảng bộ và nhân dân trong huyện ra sức thi đua thực hiện Nghị quyết đại hội IV, tháng 8-1971, vỡ đê Cống Thôn, một trận lụt lớn xảy ra. Sau trận bão, Huyện ủy đã huy động 300 cán bộ, học sinh trường đại học Thể dục thể thao Từ Sơn lên đê Đẩu Hàn, 1.500 dân công sửa Ngũ Huyện Khê, làm đường giao thông với khối lượng đất đá là 300.000m3.

Mặc dù gặp nhiều khó khăn do thiên tai, bão lụt gây ra, song phong trào sản xuất vẫn đạt kết quả tốt. Vụ Đông Xuân năm 1971, Dương Lôi đạt 5 tấn, Yên Lã đạt 5,5 tấn/1ha. Năm 1972, Tiên Sơn vẫn giữ vững ngọn cờ 5 tấn. Năng suất lúa toàn huyện đạt bình quân 5,001 tấn/1 ha. Các hợp tác xã đạt năng suất lúa từ 7 tấn trở lên là Dương Lôi, Yên Lã (Tân Hồng). Toàn huyện có 12 xã, 38 hợp tác xã đạt 5 tấn. Các xã thuộc Từ Sơn đạt trên 5 tấn có Tân Hồng, Đình Bảng, Châu Khê, Phù Khê, Đồng Quang, Đồng Nguyên, Hương Mạc, Tương Giang. Tiên Sơn luôn hoàn thành nghĩa vụ lương thực, thực phẩm, góp phần chi viện sức của cho cách mạng miền Nam.

Công tác xây dựng Đảng luôn được coi trọng. Đảng bộ huyện đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng chi, đảng bộ “4 tốt”. Quán triệt Nghị quyết của Bộ Chính trị về cuộc vận động nâng cao chất lượng lớp đảng viên Hồ Chí Minh, Huyện ủy Tiên Sơn đề ra kế hoạch và tổ chức thực hiện công tác phát triển lớp đảng viên Hồ Chí Minh đợt một từ ngày 19-5 đến ngày 2-9-1970. Trong đợt này, nhiều quần chúng ưu tú đã được kết nạp Đảng. Các tổ chức đảng cơ sở còn thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra, xử lý, đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách.

Công tác phòng không được coi trọng, bộ đội phòng không đã xây dựng hai trận địa tên lửa ở các xã Tam Sơn, Phù Chẩn; các trận địa pháo cao xạ ở xã Phù Chẩn, Đình Bảng, Đồng Quang. Huyện tiếp tục củng cố, xây dựng lực lượng dân quân, tự vệ vững mạnh. Tổ chức các lớp huấn luyện bắn máy bay tầm thấp bằng súng bộ binh cho dân quân, tự vệ. Các tổ, đội chuyên môn phục vụ chiến đấu như công binh, cứu thương, cứu hỏa, thông tin liên lạc… được củng cố vững mạnh, sẵn sàng phục vụ chiến đấu. Phong trào thi đua xây dựng đơn vị quyết thắng được đẩy mạnh. Năm 1969, có 4 xã, 10 đại đội, 21 trung đội dân quân, tự vệ đạt danh hiệu “quyết thắng”. Năm 1970, có 7 xã, 10 đại đội, 26 trung đội đạt danh hiệu “quyết thắng”. Năm 1970, huyện tuyển quân đợt hai, có 388 thanh niên nhập ngũ. Các đoàn thể quần chúng tuyên truyền, động viên thanh niên hăng hái làm nghĩa vụ quân sự. Các ngành, các cấp trong huyện thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, tích cực giúp đỡ gia đình thương binh, liệt sỹ, bộ đội.

Các cấp, các ngành, các đoàn thể quần chúng đẩy mạnh mọi mặt công tác hậu phương. Hội mẹ chiến sỹ phát triển ở tất cả các thôn. Đến cuối năm 1970, toàn huyện có 150 tổ hội mẹ chiến sỹ, có 3.400 mẹ tham gia. Các mẹ đã nhận đỡ đầu gia đình bộ đội, thương binh, liệt sỹ. Các địa phương ưu tiên giải quyết việc làm, điều hòa lương thực, hàng hóa cho các gia đình bộ đội, thương binh, liệt sỹ; cấp chế độ, phụ cấp thường xuyên, đầy đủ cho các gia đình chính sách.

Phụ nữ huyện có phong trào thành lập các tổ trung hậu. Đến cuối năm 1970, toàn huyện 87 tổ trung hậu với 1.666 phụ nữ tham gia. Đây là tổ chức của chị em vợ bộ đội, nhằm giúp nhau trong sản xuất, trong cuộc sống, đã góp phần làm yên tâm các chiến sỹ ngoài mặt trận có vợ ở hậu phương.

Đảng ủy, chính quyền các xã tổ chức đón tiếp anh em thương binh, bộ đội phục viên trở về địa phương, bố trí công tác và chăm lo sức khỏe cho anh em. Năm 1970, cả huyện có 1.336 thương binh, bộ đội phục viên, xuất ngũ trở về địa phương. Trong đó có 10 người đã trở thành cán bộ chủ chốt ở cơ sở, 507 người là lao động tiên tiến, 12 chiến sỹ thi đua. Huyện đã thành lập được 12 tổ thương binh ở các xã. Hằng tháng các tổ thương binh sinh hoạt giúp nhau trong sản xuất và đời sống.

Tại các địa phương còn thành lập các tổ gia đình vẻ vang, tập hợp các gia đình có chồng, con em tham gia bộ đội, động viên nhau xây dựng các gia đình gương mẫu. Năm 1970, cả huyện có 709 tổ, có 6.500 gia đình tham gia. Năm 1971, toàn huyện có 712 tổ gia đình vẻ vang, 87 tổ trung hậu, 124 tổ hội mẹ chiến sỹ, 28 tổ cấp phát trợ cấp chính sách; 9.756 gia đình quân nhân, trong đó, đó có 4.781 gia đình đạt danh hiệu “ba gương mẫu” và “hai tích cực”. Thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội là một yết tố quan trọng động viên các chiến sỹ ngoài mặt trận, góp phần tạo nên thành công trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của dân tộc.

Phụ nữ huyện với phong trào “ba đảm đang” là lực lượng nòng cốt trong lao động sản xuất. Chị em phụ nữ còn được cấp ủy, chính quyền quan tâm bồi dưỡng, tích cực tham gia công tác xã hội. Năm 1972, có 59 nữ cán bộ chủ chốt ở cơ sở; 915 chị tham gia dân quân, tự vệ, 41 chị đạt danh hiệu “chiến sỹ thi đua”, 2.682 lao động tiên tiến; 3.695 chị đạt danh hiệu phụ nữ “ba đảm đang”.

Bước sang năm 1972, Mỹ trở lại leo thang đánh phá miền Bắc. Từ tháng 5-1972, địch đánh phá Hà Bắc với quy mô và mức độ ác liệt hơn. Cả 16 huyện, thị xã của tỉnh Hà Bắc đều bị máy bay địch đánh phá. Địch đã ném xuống địa bàn huyện Tiên Sơn 1.070 quả bom phá, 60 quả bom bi mẹ, 36 đạn rốckét… làm chết 200 người và bị thương 294 người, phá hủy 1.051 gian nhà, giết hại 36 trâu, bò và làm thiệt hại trên 100 mẫu lúa, hoa màu.

Ngày 29-5-1972, Tỉnh ủy Hà Bắc ra Nghị quyết số 24-NQ-TU, về những nhiệm vụ cấp bách trong tình hình mới đã xác định: “Tất cả cho tiền tuyến! Tất cả để chi viện miền Nam và bảo vệ miền Bắc. Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Ngày 27-8-1972, Huyện ủy Tiên Sơn ra thông tri số 9/TT-TS về việc tăng cường chỉ đạo công tác phòng không. Quán triệt chủ trương trên, các địa phương, các ngành nêu cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, tích cực củng cố lực lượng, làm tốt công tác phòng không nhân dân. Lực lượng dân quân, du kích huyện cùng với bộ đội đào đắp 18.000 ngày công xây dựng trận địa tên lửa và pháo phòng không; đào 239.165 hầm hố các loại, tháo gỡ 25 quả bom phá, san lấp ba hố bom trên đường quốc lộ 1A, lấp 348 hố bom ở các cánh đồng, đảm bảo giao thông thông suốt trong mọi tình huống.

Năm 1972, đế quốc Mỹ trở lại leo thang đánh phá miền Bắc lần thứ hai, quân và dân Từ Sơn đã phối hợp và phục vụ lực lượng bộ đội phòng không chiến đấu đánh trả lực lượng không quân Mỹ, lập được những chiến công quan trọng góp phần cùng cả nước đánh thắng không quân Mỹ, buộc chúng phải kỷ hiệp định Pari lập lại hòa bình ở Việt Nam. Ngày 16-4-1972, tại Phù Chẩn Tiểu đoàn D94, E261 bắn rơi 1 chiếc máy bay F4 H mở đầu chiến dịch đánh hà Nội. Tiếp đó, ngày 26-10-1972, cũng tại đây đơn vị lại bắn rơi một chiếc máy bay trinh sát tầm thấp của Mỹ. Đặc biệt trong chiến dịch 12 ngày đêm “Điện Biên Phù trên không”, tiểu đoàn D94 E261 pháo cao xạ tại Tam Sơn đã bắn rơi hai “pháo đài bay” B52 của Mỹ, trong đó một chiếc rơi tại Quế Võ vào lúc 20 giờ 30 phút ngày 20-12-1972 và một chiếc vào lúc 23 giờ ngày 27-12-1972, góp phần làm nên chiến thắng lịch sử “Điện Biên Phủ trên không” vĩ đại.

Xã Tam Sơn bị máy bay B52 của Mỹ đánh phá, lực lượng dân quân, công an thường trực chiến đấu giải quyết hậu quả do địch gây ra. Tại các xã Đình Bảng, Châu Khê, Đảng ủy và tổ công an thường trực cả ngày, đêm tại trụ sở xã để bảo vệ tài sản của Nhà nước, giải quyết hậu quả các đợt tập kích máy bay địch. Quân và dân trong huyện đã tham gia chiến đấu 30 trận, trên địa bàn huyện có 10 máy bay rơi, bắt 8 phi công, trong đó có 3 tên chết, thu hồi 9 tên lửa, 945 bom bi, 25 bom phá[11]. Đảng bộ và nhân dân huyện Tiên Sơn đã làm tốt công tác phòng không sơ tán, xây dựng lực lượng vững mạnh, chiến đấu và phục vụ chiến đấu kiên cường, dũng cảm, góp phần cùng cả nước đánh thắng “không lực Hoa Kỳ” trong hai cuộc chiến tranh phá hoại của chúng.

Sau những thất bại nặng nề ở cả hai miền Nam-Bắc, ngày 27-1-1973, Mỹ buộc phải ký Hiệp định Pari về lập lại hòa bình ở Việt Nam, toàn Đảng, toàn dân ta bước vào thời kỳ tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, tích cực chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến, quyết tâm đánh cho ngụy nhào, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, từ ngày 27 đến ngày 30-3-1973, Đảng bộ huyện tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ V. Đại hội đã thông qua Nghị quyết về phương hướng, nhiệm vụ của nhiệm kỳ tới xác định rõ mục tiêu: “Tập trung mọi cố gắng cao nhất của toàn Đảng, toàn dân, của các cấp, các ngành vào việc thực hiện thắng lợi ba mục tiêu trong nông nghiệp: 6 tấn thóc, 2,5 con lợn và 1 lao động trên 1 ha gieo trồng… Năm 1973 cố gắng đạt 5,5 tấn thóc, 2 con lợn, 1 lao động trên 1 ha gieo trồng. Đại hội bầu Ban Chấp hành mới, đồng chí Nguyễn Đình Khôi được bầu làm Bí thư, các đồng chí Nguyễn Văn Vũ và Nguyễn Văn Loát được bầu làm Phó Bí thư Huyện ủy.

Sau Đại hội, huyện mở đợt thi đua trong toàn dân nhằm thực hiện thắng lợi vụ chiêm xuân, hoàn thành kế hoạch làm thủy lợi đắp đê chống úng. Thực hiện nghị quyết của tỉnh “lấy sản xuất lương thực làm trọng tâm”, Huyện ủy đã chỉ đạo các hợp tác xã tăng cường đầu tư thâm canh tăng năng suất lúa, tích cực áp dụng khoa học kỹ thuật, đưa các loại giống lúa mới có năng suất cao vào sản xuất đại trà.

Nhờ làm tốt công tác thủy lợi, chủ động phòng chống úng, hạn, tăng cường đầu tư thâm canh, cải tiến kỹ thuật sản xuất nông nghiệp, huyện có những tiến bộ về mọi mặt cả trồng trọt và chăn nuôi. Năm 1974, diện tích 20.242 ha, năng xuất 5,804 tấn/ha, sản lượng 53.397 tấn; có 24 xã, 54 hợp tác xã đạt 5 tấn/1 ha cả năm; ba xã đạt trên 8 tấn, ba xã đạt trên 7 tấn; sáu xã đạt trên 6 tấn. Về chăn nuôi: số lợn nái, lợn lai kinh tế phát triển mạnh. Năm 1974, trâu bò 5.572 con, lợn 36.367 con, bình quân 1,77 đầu lợn/ha.

Năm 1974, cả huyện có 16 hợp tác xã thủ công nghiệp với 774 xã viên. Các đơn vị khá như sơn mài Đình Bảng, mỹ nghệ Tân Hồng. Có 80 hợp tác xã thủ công nằm trong hợp tác xã nông nghiệp với 1.598 xã viên. Một số hợp tác xã hoạt động có hiệu quả như Dương Lôi, Trịnh Tháp. Năm 1973, giá trị hàng thủ công nghiệp đạt 8.582.000đ. Năm 1974 đạt 8.731.0000đ.

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và của Tỉnh ủy Hà Bắc, huyện Tiên Sơn tiến hành mở rộng quy mô hợp tác xã, xây dựng các hợp tác xã cấp cao có quy mô toàn xã. Năm 1973, cả huyện có 73 hợp tác xã, có hai hợp tác xã cấp cao quy mô toàn xã là xã Phù Chẩn (Từ Sơn), Cảnh Hưng (Tiên Du). Năm 1974, huyện đẩy mạnh công tác củng cố quản lý xây dựng thêm nhiều đội chuyên trong hợp tác xã: làm thủy lợi, làm giống, làm đất, phân… toàn huyện có 243 đội chuyên.

Thực hiện nghĩa vụ lương thực đối với Nhà nước: năm 1973, đạt 104% kế hoạch, nghĩa vụ thực phẩm đạt 123% kế hoạch. Các xã Tam Sơn, Tương Giang hoàn thành nghĩa vụ thực phẩm trong nhiều năm liền.

Ngày 16-5-1973, Ban Thường vụ Huyện ủy ra nghị quyết về công tác an ninh, nêu rõ: Mở cuộc vận động từ nay đến hết tháng 12-1973, lấy khu vực thị trấn Từ Sơn và xã Đồng Quang làm điểm, nhằm mục đích phát động mọi người dân nâng cao cảnh giác, trấn áp bọn tội phạm hình sự, bọn côn đồ, càn quấy, gây rối… Thực hiện Nghị quyết của Huyện ủy, nhân dân các địa phương hưởng ứng làm tốt công tác giữ gìn trật tự an ninh.

Ngày 12-6-1973, Ban Thường vụ Huyện ủy ra nghị quyết về công tác quân sự địa phương trong tình hình mới. Huyện ủy chỉ đạo, đôn đốc các xã làm tốt công tác tuyển quân, tổ chức huấn luyện cho dân quân tự vệ. Hằng năm Tiên Sơn đều hoàn thành nghĩa vụ tuyển quân, giao quân đúng hạn. Năm 1974 đạt 104% chỉ tiêu kế hoạch được giao. Tháng 12-1974, Huyện ủy ra nghị quyết tiếp tục phấn đấu, đảm bảo tốt công tác quân sự địa phương trong tình hình mới. Ngay trong đợt tuyển quân năm 1975, huyện đã hoàn thành chỉ tiêu giao quân cả năm.

Năm 1973- 1974, ngành giáo dục phát triển cả về cấp học, ngành học. Các trường đạt danh hiệu tiên tiến là Tam Sơn, Tân Hồng, Tương Giang. Năm học 1974- 1975, toàn huyện có 37.841 học sinh phổ thông, 8.198 học sinh vỡ lòng, 2.000 cháu mẫu giáo. Phong trào bổ túc văn hóa liên huyện, khóa đầu tiên có bốn lớp gồm 37 cán bộ chủ chốt các xã và cán bộ viên chức trong huyện.

Ngành y tế đã có nhiều cố gắng, trong việc khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe, phòng bệnh cho nhân dân. Công tác tuyên truyền, thực hiện cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch được triển khai mạnh ở các địa phương. 

Công tác văn hóa, thông tin có nhiều tiến bộ. Hiệu sách, ngành chiếu bóng hoạt động đều đặn, đảm bảo kế hoạch. Thư viện Trang Hạ (Đồng Quang) trở thành điển hình của tỉnh trong việc phục vụ nhân dân đọc sách báo. Phong trào xây dựng nếp sống văn hóa mới được phát động trong huyện. Nhiều địa phương đã thực hiện tốt quy ước nếp sống mới trong việc cưới, việc tang…

Tính đến tháng 9-1973, huyện có 3.811 đảng viên, trong đó 1.093 đảng viên nữ, 3.013 đảng viên nông thôn. Thực hiện Chỉ thị 192 của Trung ương Đảng về nâng cao chất lượng đảng viên, đưa những người không đủ tư cách ra khỏi Đảng, năm 1973, Đảng bộ huyện đã xử lý kỷ luật 155 đảng viên, trong đó khai trừ 50, đưa ra khỏi Đảng 24 người. Thực hiện đào tạo cán bộ theo Nghị quyết 255 của Bộ Chính trị, Đảng bộ huyện đã chọn Đảng bộ xã Tân Hồng làm điểm xây dựng quy hoạch cán bộ. Hầu hết các cán bộ chủ chốt xã đều được học các lớp bồi dưỡng lý luận chính trị.

Đoàn thanh niên Lao động Hồ Chí Minh, Hội phụ nữ huyện là lực lượng xung kích trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng. Luôn gương mẫu đi đầu vượt khó trong lao động sản xuất và thi đua chống Mỹ, cứu nước. Năm 1974, toàn huyện có 68 đội thủy lợi chuyên trách với 1.535 thanh niên. Số đoàn viên thanh niên lao động đã có mặt trên các công trường thủy lợi là 2.875 người. Thanh niên, phụ nữ ở các cơ sở còn là lực lượng chủ yếu của các phong trào thi đua sản xuất như phong trào làm bèo hoa dâu, phong trào làm phân bón…Các tổ chức Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông dân cũng có nhiều hoạt động thiết thực, động viên nhân dân tích cực tham gia phát triển kinh tế và các phong trào thi đua yêu nước, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ.

Ngày 28-10-1974, khai mạc Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ VI. Tham dự đại hội có 181 đại biểu thay mặt cho 3.879 đảng viên dự. Đại hội đã thảo luận và thông qua Nghị quyết, xác định phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ 1975-1976 và bầu Ban Chấp hành khóa VI. Tại phiên họp thứ nhất, Ban Chấp hành bầu Ban Thường vụ 7 đồng chí, bầu đồng chí Nguyễn Đình Khôi giữa chức Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Loát, Nguyễn Văn Vũ, Phó Bí tư Huyện ủy.

Sản xuất nông nghiệp năm 1975 đạt năng suất 6.412 tấn/1 ha, tổng sản lượng toàn huyện đạt 60.076 tấn. Tháng 1-1975 Huyện ủy phát động đợt thi đua chào mừng ngày thành lập Đảng, đẩy mạnh mọi mặt sản xuất, công tác, giữ vững ngọn cờ 5 tấn.

Ngày 30-4-1975, chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, miền nam nước ta hoàn toàn giải phóng, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi đã mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ độc lập, thống nhất đất nước và đi lên chủ nghĩa xã hội.

Hơn 20 năm đoàn kết nỗ lực phấn đấu, Đảng bộ và nhân dân Tiên Sơn đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, hoàn thành thắng lợi cuộc cải cách ruộng đất, cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội, tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu dũng cảm, góp phần đánh thắng chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, đồng thời tích cực chi viện sức người, sức của cùng nhân dân cả nước, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đảng bộ huyện không ngừng lớn mạnh, là hạt nhân lãnh đạo, là yếu tố quyết định những thắng lợi của cách mạng. Chặng đường 20 năm (1955-1975) đã ghi những dấu son đáng tự hào của Đảng bộ và nhân dân Từ Sơn.

E. Từ Sơn trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa (1976 - 1985)

I. THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM 1976-1980

Tháng 9-1975, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 24 (khoá III) đã nêu rõ nhiệm vụ của cách mạng miền Bắc là: “đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”[1], đồng thời tiếp tục phát huy tác dụng tích cực đối với sự nghiệp cách mạng của cả nước”.

Năm 1975, tình hình kinh tế- xã hội trong nước cũng như Hà Bắc gặp nhiều khó khăn. Các làng nghề thủ công thiếu vốn và thị trường tiêu thụ. Trong nông nghiệp, với cơ chế quản lý tập trung, bao cấp, kinh tế không phát triển được, diện tích gieo trồng và năng suất đạt thấp. Sản xuất nông nghiệp chủ yếu là độc canh cây lúa.

Tình hình văn hóa- xã hội còn nhiều phức tạp, các tệ nạn xã hội (mê tín dị đoan, cờ bạc) phục hồi và có chiều hướng gia tăng. Các phần tử xấu dùng nhiều thủ đoạn để chống phá ta về văn hóa, tư tưởng. Các công trình phúc lợi xã hội như  trường học, trạm y tế vừa thiếu lại vừa yếu cả về cơ sở vật chất cũng như đội ngũ phục vụ và đội ngũ giáo viên.

Năm 1976, tình hình của cả nước, của tỉnh, cũng như của huyện đã có những chuyển đổi theo hướng tích cực. Năm 1976 là năm có nhiều sự kiện quan trọng đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử dân tộc. Cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của cả nước tiến hành ngày 25-4-1976 là biểu thị ý chí của toàn dân đối với việc xây dựng nước Việt Nam độc lập, thống nhất.

Đầu năm 1976, Huyện ủy chỉ đạo các cơ sở đảng tiến hành đại hội. Tháng 4-1976 Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ VII (đợt 1)[2] tại hội trường bên cạnh núi Lim. Đại hội thảo luận góp ý kiến vào Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương trình tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV và Dự thảo báo cáo chính trị của Tỉnh ủy sẽ trình Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ III. Đại hội đánh giá, khẳng định kết quả đạt được trong nhiệm kỳ qua, đề ra phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ tới. Trong đó, Đại hội xác định nhiệm vụ: tích cực tạo mọi điều kiện từng bước đi từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa một cách vững chắc, ra sức phát triển sản xuất nông nghiệp, coi trọng và cân đối cả trồng trọt và chăn nuôi, thâm canh toàn bộ diện tích cây trồng, gia sức, mở rộng vụ Đông, đẩy nhanh năng suất cây trồng và năng suất lao động trong nông nghiệp. Ra sức củng cố hợp tác xã nông nghiệp, tiếp tục mở rộng quy mô hợp tác xã nông nghiệp đi đôi với tổ chức lại sản xuất, nâng dần trình độ quản lý kinh tế, quản lý kỹ thuật làm cho hợp tác xã thực sự là đơn vị sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nông thôn. Ra sức củng cố các hợp tác xã thủ công để giải quyết lao động dư thừa, tăng thu nhập cho tập thể, cải thiện đời sống nhân dân, tích cực sản xuất các mặt hành xuất khẩu của tỉnh. Hết sức tranh thủ sự giúp đỡ của các xí nghiệp tỉnh, Trung ương đóng tại địa phương để phục cho nông nghiệp, thủ công nghiệp.

Đẩy mạnh xây dựng bệnh viện, trạm xá, trường học, nhà trẻ, mẫu giáo, thư viện. Tăng cường công tác văn hóa thông tin để kịp thời tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và chủ trương của địa phương. Biểu dương kịp thời người tốt, việc tốt, phê phán những thói hư, tật xấu, chống những hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan…

Đề cao cảnh giác, củng cố lực lượng vũ trang, lực lượng công an nhằm bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ thành quả xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự xã hội.

Tăng cường công tác xây dựng đảng trên ba mặt: chính trị, tư tưởng, tổ chức. Ra sức củng cố chính quyền và các đoàn thể quần chúng nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chuyên chính vô sản, thực hiện nghiêm chỉnh mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, hoàn thành mọi nhiệm vụ với Nhà nước, tập thể.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành huyện Đảng bộ gồm 27 đồng chí, đồng chí Nguyễn Đình Khôi được bầu làm Bí thư, các đồng chí Nguyễn Văn Vũ, Nguyễn Văn Loát được bầu làm Phó Bí thư; bầu đoàn đại biểu đi dự đại hội cấp trên.

Thực hiện Chỉ thị 03/CT-TU của Tỉnh ủy về việc Tổ chức lại sản xuất trong các hợp tác xã nông nghiệp và mở rộng quy mô hợp tác xã, năm 1976, toàn huyện có 28 hợp tác xã nông nghiệp; năm 1977, còn 14 hợp tác xã nông nghiệp, trong đó có một hợp tác xã có quy mô toàn xã là hợp tác xã Phù Chẩn. Sau hợp nhất, các hợp tác xã đã nhanh chóng giải quyết những vấn đề tồn tại của hợp tác xã cũ, sớm đi vào ổn định, thực hiện tốt ba quản: quản lý sản xuất, quản lý lao động, quản lý tài vụ. Các hợp tác xã nông nghiệp đều thành lập các đội chuyên (làm đất, chế biến phân bón, sản xuất giống thủy nông, thủy lợi…). Hợp tác xã thực hiện chế độ khoán việc là chủ yếu. Về lương thực, duy trì chính sách phân phối theo định suất. Đến năm 1978, tất cả các hợp tác xã nông nghiệp đều tiến lên quy mô toàn xã.

Quán triệt quan điểm xây dựng chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ quan trọng của Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ VII, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm trước mắt là: “tập trung phát triển mạnh sản xuất nông nghiệp toàn diện”. Năm 1976, diện tích gieo trồng toàn huyện đạt 8.582,5 ha, diện tích lúa là 7.0184 ha. Năng suất lúa đạt khá cao: 5.372 tấn/1 ha/1 năm. Có 7/11 xã đạt trên 5 tấn/ha, cao nhất là xã Châu Khê 8,7 tấn/ha, Tân Hồng 8 tấn/1 ha; có 19/29 hợp tác xã đạt trên 5 tấn/1 ha. Tổng sản lượng lương thực cả năm đạt 24.940,7 tấn, riêng thóc là 23.289 tấn. Năm 1978, diện tích gieo trồng đạt 10.022 ha, vượt kế hoạch 0,3%, năng suất lúa đạt 5,316 tấn/ha, đạt 87,1% kế hoạch; tổng sản lượng lương thực đạt 24.725 tấn, bằng 80,1% kế hoạch.

Về chăn nuôi, tuy có khó khăn về nguồn thức ăn, nhưng nhờ chủ trương đúng đắn, khuyến khích phát triển chăn nuôi cả khu vực tập thể và gia đình nên đàn gia súc và gia cầm đều tăng. Trong chăn nuôi đã bước đầu chú ý đến giống và thức ăn. Huyện chủ trương xây dựng nhà máy nghiền thức ăn cho gia súc, gia cầm ở Tân Hồng với công suất 2.000 tấn/năm và có kế hoạch đưa lợn nái vào hai trại chăn nuôi tập thể là Phù Khê và Châu Khê. Các chỉ tiêu giao nộp nghĩa vụ với Nhà nước đạt kết quả cao. Các chỉ tiêu về gia súc, gia cầm đều không đạt kế hoạch. Đàn lợn năm 1976 đạt 15.000 con, so với năm 1975 giảm 2.678 con. Đàn vịt có 36.000 con (điển hình chăn nuôi lợn tập thể là hợp tác xã Tân Hồng). Đàn trâu, bò năm 1976 đạt 2.572 con, giảm hơn so với năm 1975 là 100 con. Nguyên nhân của sự giảm sút trong chăn nuôi là do khó khăn về lương thực, thức ăn cho chăn nuôi, do thời tiết khắc nghiệt, giá rét kéo dài nên trâu bò chết nhiều. Trọng lượng lợn xuất chuồng bình quân một con từ 38kg lên 48kg. Phong trào xây dựng “ao cá Bác Hồ”, phong trào trồng dâu nuôi tằm, với khẩu hiệu “phá hàng rào gai, làm hàng rào dâu” được phát triển rộng khắp trên toàn huyện.

Công tác thủy lợi được coi trọng. Hai năm 1976-1977, toàn huyện đã đào đắp được chín tuyến kênh tưới, hai tuyến kênh tiêu với khối lượng 1.200 m3 đất, đá; xây 1.215 cầu, cống, đạt 73% kế hoạch, với tổng số 300.346 ngày công và đào đắp được 414.983 m3 đất, đá. Thực hiện Nghị quyết 06-NQ-TU của Tỉnh ủy, Huyện ủy đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ, biện pháp thực hiện kế hoạch làm thủy lợi cải tạo đất. Năm 1978, toàn huyện có 9 km kênh tưới cấp I; 37km kênh tưới cấp II; 70 km kênh tưới cấp III; 6 km kênh tiêu cấp I; 30 km kênh tiêu cấp II; 60 km kênh tiêu cấp III và 25 trạm bơm hỗ trợ tưới tiêu cho 1.700 ha cây trồng. Huyện cơ bản hoàn thành việc đắp bờ thửa. Đến cuối năm 1978, 95% diện tích canh tác của huyện được tưới nước, nhưng khả năng tiêu úng còn hạn chế. Trong 2 năm 1979-1980, huyện đều hoàn thành vượt mức kế hoạch đắp đê và liên tục phát động các chiến dịch làm thủy lợi cải tạo đất kết quả cao. Trong 5 năm 1976-1980, toàn huyện đã đào đắp được 562.000 m3 đất, đá, xây dựng hai trạm bơm, 11 mương tưới, bốn mương tiêu, 1.900 cống các loại. Để có đủ điện phục vụ thủy lợi, huyện đã đầu tư xây dựng các đường dây và trạm điện. Đầu năm 1979, huyện có một đường điện cao thế 110KV và 35KV, 12 trạm biến áp với công suất 642 KVA, 147 km đường điện 35 KV, 11,5km đường điện 10 KV, 4 km đường điện 6 KV, 42 km đường điện 94 KV. Đến đầu năm 1980, 10 xã và thị trấn có điện phục vụ thủy lợi và sinh hoạt nhân dân.

Cùng với đẩy mạnh chiến dịch làm thủy lợi và cải tạo đất, phong trào diệt trừ sâu bệnh, phong trào làm phân bón cũng được chú trọng và phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt, huyện đã coi trọng việc hướng dẫn và tổ chức nông dân áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, thâm canh để tăng năng suất và sản lượng cây trồng.

Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, những do có sự cố gắng của Đảng bộ và nhân dân trong huyện nên đã thu được kết quả. Ngành thủ công nghiệp, năm 1975 chỉ chiếm 32%, đến năm 1976 lên 60% tổng giá trị công nghiệp- thủ công nghiệp. Hai năm 1976-1977, hợp tác xã thủ công chuyên nghiệp hầu hết đạt và vượt như hợp tác xã Quyết Tiến (Tân Hồng), sơn mài (Đình Bảng), chạm gỗ (Hương Mạc, Phù Khê), một số hợp tác xã do quản lý tốt nên thu nhập cao, điển hình là hợp tác xã Trịnh Tháp (Châu Khê) và hợp tác xã Tân Hồng có doanh thu gần 1 triệu đồng/1 năm. Đến năm 1977, toàn huyện đã có 10 hợp tác xã thủ công thu hút 1.558 lao động. Trong 5 năm (1976-1980), sản xuất tiểu, thủ công nghiệp vẫn phát triển và ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong toàn bộ nền kinh tế huyện. Năm 1978, ngành tiểu, thủ công nghiệp hình thành ba khu vực rõ rệt: các hợp tác xã chuyên nghiệp, các hợp tác xã nông nghiệp kiêm doanh và khu vực tư nhân (trong khu vực các hợp tác xã nông nghiệp kiêm doanh phát triển mạnh, còn hộ sản xuất tư nhân thì chưa có điều kiện phát triển). Trên lĩnh vực sản xuất thủ công nghiệp, nhiều hợp tác xã đã có những tiến bộ đáng kể và đạt nhiều thành tích tốt (hợp tác xã thủ công mỹ nghệ Tân Hồng đã được Chính phủ tặng thưởng huân chương). Sản xuất công nghiệp trong huyện đều đạt và vượt kế hoạch như Xí nghiệp gạch ngói Từ Sơn, Nhà máy quy chế Từ Sơn.

Ngành thương nghiệp (mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán) đã mở rộng mạng lưới xuống tận các xã. Các loại hàng hóa được thực hiện phân phối theo chế độ tem phiếu. Ngày 25-9-1978, Tỉnh ủy đã có Nghị quyết 04 về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác cải tạo thương nghiệp và quản lý thị trường. Nghị quyết nêu rõ cần phải xây dựng được chợ nông thôn, phát triển thêm cửa hàng, đảm bảo cung cấp các mặt hàng tiêu dùng phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Năm 1977, huyện nộp 2.000 tấn thóc thuế, đạt 100% chỉ tiêu kế hoạch, thu mua hàng ngàn tấn lương thực ngoài thuế nông nghiệp. Năm 1979, huyện nộp nghĩa vụ lương thực với Nhà nước được 4.173,1 tấn, vượt kế hoạch 3,1%, hoàn thành 260 tấn thịt lợn hơi trước thời hạn.

Sự nghiệp giáo dục-đào tạo ngày càng phát triển cả về chiều sâu và bề rộng. Số trường lớp được phát triển cân đối và ổn định. Năm học 1977-1978, các trường học cấp I và cấp II sáp nhập thành trường phổ thông cấp I-II, 369 lớp, 18.930 học sinh, một trường cấp III, 18 lớp 917 học sinh. Hằng năm ngành giáo dục huyện đã huy động hết trẻ em từ sáu đến 15 tuổi ra lớp. Năm học 1978-1979 toàn huyện có 3.510 cháu ra lớp, đạt 54% số cháu trong độ tuổi đến lớp. Các cháu ở nhà trẻ xã Tam Sơn, Tân Hồng, Châu Khê được ăn bữa phụ không mất tiền. Công tác bổ túc văn hóa của huyện đạt kết quả tốt, đã bổ túc cho 1.253 học viên. Xã Phù Khê, thị trấn Từ Sơn đã được tỉnh công nhận phổ cập cấp I. Ngày 1-1-1979, Bộ Chính trị có Nghị quyết 14 về cải cách giáo dục. Nghị quyết này đã được triển khai rộng rãi từ trong Đảng đến nhân dân trong huyện, từ đó nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền và nhân dân được nâng lên, tạo điều kiện cho giáo dục phát triển cả về tư tưởng và tổ chức.

Phong trào xây dựng ba công vệ sinh, trồng và sử dụng thuốc nam chữa bệnh, cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch được đông đảo nhân dân thực hiện. Hằng năm, ngành y tế đều tổ chức tiêm phòng bệnh cho nhân dân, cơ sở vật chất phục vụ công tác khám chữa bệnh được nâng lên. Năm 1977 toàn huyện có 58 giường bệnh, năm 1978 tăng lên 217 giường. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên vẫn cao, năm 1977 là 2,64%, năm 1978 giảm xuống 2,41%, năm 1979 lại tăng lên 2,6%.

Tháng 5-1977, tại hội trường cạnh núi Lim, Đảng bộ huyện mở đại hội đại biểu lần thứ VIII (vòng 1). Đại hội tổng kết nhiềm kỳ VII, thảo luận góp ý kiến vào bản dự thảo Báo Cáo chính trị Tỉnh ủy trình Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Bắc lần thứ IV, xác định phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ 1977-1979.

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (12-1976) đề ra nhiệm vụ trọng tâm của cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa là xây dựng con người mới, xây dựng nền văn hóa mới. Phong trào xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa mới là một trong những nội dung được Huyện ủy và các đoàn thể quần chúng đặc biệt quan tâm. Trong cuộc vận động xây dựng nếp sống văn minh này, bước đầu nhiều cấp hội đã gắn nội dung xây dựng với yêu cầu thực hiện Chỉ thị 214 của Ban Bí thư về thực hiện nếp sống mới. Năm 1978, toàn huyện có 52% tổng số hộ đăng kí thực hiện gia đình văn hóa, năm 1980 có 8.032 hộ đăng kí thực hiện gia đình văn hóa. Hằng năm, huyện đã phát động và duy trì phong trào người công dân kiểu mẫu, gia đình cách mạng gương mẫu. Các hoạt động mê tín, dị đoan giảm hẳn so với năm 1976.

Từ ngày 5 đến ngày 8-10-1979, khai mạc Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ VIII nhằm kiểm điểm công tác 2 năm 1977-1979, và bàn phương hướng nhiệm vụ nhiệm kỳ 1979-1980, xác định: Đẩy mạnh sản xuất, ổn định và đảm bảo đời sống nhân dân, tăng cường quốc phòng, an ninh chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc. Kiên quyết đấu tranh khắc phục những mặt tiêu cực trong hoạt động kinh tế- xã hội nhất là tệ ăn cắp, hối lộ ức hiếp quần chúng, xây dựng tổ chức đảng, chính quyền và các tổ chức quần chúng vững mạnh. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 31 ủy viên chính thức, 2 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Nguyễn Đình Khôi được bầu làm Bí thư, hai đồng chí Đặng Quỳnh Mai và Nguyễn Văn Vũ làm Phó Bí thư Huyện ủy.

Đất nước hòa bình, thống nhất, nhân dân ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng cuộc sống nhưng các thế lực thù địch gây ra chiến tranh biên giới ở phía Nam và phía Bắc nước ta vào năm 1978-1979. Trước tình hình đó, Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện chỉ đạo kịp thời việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế-xã hội.

Trước yêu cầu mới của đất nước, nhân dân toàn huyện đã dấy lên khí thế thi đua sôi nổi, vừa sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu. Huyện đã xây dựng phương án phòng thủ, hệ thống thông tin liên lạc, chỉ huy tác chiến. Ở các xã, thị trấn đều có lực lượng cơ động chiến đấu được trang bị đủ vũ khí. Huyện có hàng trăm người đi dân công xây dựng phòng tuyến biến giới, tổ chức khám tuyển và giao 1.362 thanh niên nhập ngũ đạt 101% chỉ tiêu. Hưởng ứng lệnh tổng động viên của Chủ tịch Hội đồng nhà nước đã có hàng trăm lá đơn tình nguyện nhập ngũ, có nhiều thanh niên viết đơn 3-4 lần xin đi bộ đội.

Năm 1977, huyện có 7.413 dân quân tự vệ, chiếm 11,15% dân số, có 59% cán bộ chỉ huy dân quân, tự vệ là cán bộ chủ chốt của các xã, các cơ quan, 54% đảng viên tham gia lực lượng dân quân tự vệ. Do yêu cầu của tình hình mới nên năm 1979 số lượng dân quân tự vệ lên tới 10.272 người, chiếm 14,7% dân số, huyện đã tổ chức một trung đoàn dân quân, du kích cơ động và sáu đại đội tự vệ chiến đấu. Ở nông thôn có 41% đảng viên, 94% đoàn viên thanh niên, 74% bộ đội phục viên tham gia quân đội; ở khối cơ quan, nhà máy, xí nghiệp, 62% đảng viên, 74% đoàn viên thanh niên, 82% bộ đội chuyển ngành tham gia tự vệ.

Các đoàn thể quần chúng đã phát động các đợt thi đua như phụ lão mở hội nghị “Diên Hồng” bàn việc nước; thanh niên phát động phong trào “ba xung kích làm chủ tập thể”, “tuổi trẻ quyết thắng quân xâm lược”. Phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc phát triển rộng khắp. Các tổ an ninh nhân dân được củng cố và hoạt động có hiệu quả, làm nòng cốt trong công tác giữ gìn an ninh trật tự ở làng, xã, cơ quan. Mạng lưới công an trong toàn huyện được củng cố, đã phối hợp chặt chẽ với dân quân, tự vệ làm nhiệm vụ tuần, phòng, canh gác bảo vệ an ninh, trật tự, đồng thời tiến hành phân loại, quản lý chặt chẽ các đối tượng nghi vấn, giáo dục các đối tượng xấu. Huyện phát động phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc trong toàn dân, mở đợt sinh hoạt sâu rộng từ trong Đảng ra ngoài quần chúng nhằm giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận rõ bộ mặt thật, bản chất kẻ thủ.

Về công tác xây dựng Đảng, Huyện đã mở lớp bồi dưỡng chương trình lý luận sơ cấp cho 1.496 đảng viên, chương trình trung cấp cho 34 đảng viên và đã cử hai đồng chí đi học chương trình lý luận cao cấp, 13 đồng chí học trương trình trung cấp do Trung ương tổ chức. Trong 5 năm (1975-1980), Đảng bộ huyện đã kết nạp được 309 đảng viên mới. Huyện ủy tổ chức quán triệt và thực hiện tốt Chỉ thị số 38 của Trung ương về việc phát thẻ đảng viên. Có 8 trên 11 đảng bộ xã, thị trấn, 34 trong 46 chi bộ cơ quan với 4.489 đảng viên được nhận thẻ đợt đầu tiên. Việc củng cố khối đoàn kết thống nhất trong Đảng được duy trì và thực hiện tốt. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì vẫn còn những hạn chế nhất định cần phải khắc phục: cơ sở đảng và chất lượng đảng viên ở nhiều nơi còn yếu kém, thiếu tích cực thực hiện công tác phát triển đảng viên mới. Một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất đã làm giảm niềm tin của quần chúng đối với Đảng. Tính tùy tiện xảy ra ở một số cán bộ, đảng viên, ý thức tổ chức kỷ luật ở một số cán bộ đảng viên còn chưa nghiêm túc, tư tưởng tư lợi chỉ vun vén cho cá nhân còn nặng. Đội ngũ cán bộ chuyên trách xây dựng đảng vừa thiếu lại vừa yếu. Công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở nói chung vẫn còn yếu.

Công tác xây dựng và củng cố chính quyền được coi trọng. Sau ngày giải phóng đã tiến hành bầu cử hội đồng nhân dân các cấp và bầu đại biểu Quốc hội, ở Tiên Sơn cũng được tiến hành rầm rộ và đạt kết quả tốt đẹp. Ủy ban nhân dân các xã và thị trấn được kiện toàn, củng cố, hoạt động có nề nếp và phát huy được hiệu lực.

Mặt trận Tổ quốc thực hiện đại đoàn kết toàn dân, động viên mọi tầng lớp nhân dân ra sức thi đua lao động sản xuất, giáo dục nhân dân chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước góp phần tích cực trong công tác tuyên truyền bầu cử, vận động gửi tiền tiết kiệm, vận động trồng cây chế biến thuốc, giáo dục động viên con cháu tích cực lao động sản xuất, xung phong lên đường bảo vệ Tổ quốc.

Đoàn Thanh niên có phong trào “ba xung kích làm chủ tập thể”, đã động viên lực lượng đoàn viên thanh niên đi đầu và làm nòng cốt trong lao động sản xuất, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, tổ chức giáo dục thiếu niên, nhi đồng. Năm 1977-1978, Đoàn Thanh niên của huyện đã xây dựng được 276 công trình thanh niên làm ruộng tăng sản với diện tích 425 ha. Đội thiếu niên, nhi đồng phát triển công tác Trần Quốc Toản làm việc nhỏ nghĩa lớn, tham gia hợp tác xã măng non, chăm sóc trâu, bò, béo, khỏe.

Phụ nữ là lực lượng chính trên mặt trận sản xuất nông nghiệp. Chị em vận động, hướng dẫn nhau cấy đúng kỹ thuật, giúp nhau phát triển kinh tế phụ gia đình, thực hiện sinh đẻ có kế hoạch, nuôi con khỏe, dạy con ngoan và tham gia tích cực trong việc thực hiện chính sách hậu phương quân đội. Năm 1978 Hội phụ nữ Tiên Sơn được nhận cờ luân lưu tỉnh hội. Hội phụ nữ thực hiện phong trào “người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” noi gương chiến đấu của Phạm Thị Hồng Chiêm…

Hội Nông dân đã tổ chức được hàng trăm tổ nông dân tập thể ở các xã, tổ chức động viên nông dân nêu cao tinh thần làm chủ hợp tác xã, thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Qua 5 năm (1976-1980), thực hiện công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng bộ và nhân dân Tiên Sơn đã đạt được những thành tích quan trọng trên nhiều lĩnh vực kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, cơ chế sản xuất thời kỳ này cũng bắt đầu bộc lộ những bất cập, yếu kém, nhất là trong sản xuất nông nghiệp. Điều này đã được Đảng ta nhận thức được và có chính sách điều chỉnh phù hợp. Cũng như nhân dân cả nước, Tiên Sơn bước vào thời kỳ có nhiều khó khăn, thách thức đặt ra.

II. THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM 1981-1985

1. Đại hội Đảng bộ huyện Tiên Sơn lần thứ IX

Từ cuối những năm 1970, Đảng ta đã bước đầu nhận thức được những hạn chế của cơ chế tập trung bao cấp trong sản xuất nông nghiệp: Quan hệ sản xuất vượt quá xa so với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất; không thực sự gắn bó với người nông dân với hợp tác xã, từ đó không phát huy được nhiệt tình lao động, ý thức trách nhiệm của người lao động, tinh thần chủ động sáng tạo của người nông dân với tập thể. Những quyết định của Hội nghị Trung ương 6 (khóa IV) đã đặt cơ sở quan trọng cho việc hướng tới đổi mới chính sách nông nghiệp. Ngày 13-1-1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 100-BBT/TW về khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động trong sản xuất nông nghiệp. Chỉ thị đã nêu rõ mục tiêu của việc thực hiện cơ chế khoán mới “đảm bảo phát triển sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế, trên cơ sở lôi cuốn được mọi người hăng hái lao động, khích thích tăng năng suất lao động, sử dụng tốt đất đai, tư liệu sản xuất hiện có, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, tiết kiệm chi phí sản xuất, củng cố và tăng cường quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nông thôn; không ngừng nâng cao thu nhập và đời sống của xã viên”[3]. Đồng thời Chỉ thị 100 cũng nhấn mạnh việc cải tiến các hình thức khoán; mở rộng khoán sản phẩm; sự tăng cường chỉ đạo, tổ chức thực hiện và tạo điều kiện hướng dẫn, kiểm tra giúp đỡ đơn vị cơ sở thực hiện tốt chỉ thị của cấp trên. Có thể nói, Chỉ thị 100 là kết quả của quá trình tìm tòi, đổi mới tư duy trong việc cải cách một bước mô hình hợp tác xã nông nghiệp, mở ra một hướng đi mới đầy triển vọng cho nền sản xuất nông nghiệp và nông thôn Việt Nam nói chung, cho huyện Tiên Sơn nói riêng.

Quán triệt chủ trương đó, từ 28-12-1981 đến 1-1-1982 Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ IX (vòng 1) được tiến hành tại Hội trường Huyện ủy (núi Lim). Đại hội đã thông qua Nghị quyết khẳng định đề ra phương hướng, nhiệm vụ trong 5 năm 1981-1985: đề cao cảnh giác cách mạng, nêu cao tinh thần trách nhiệm, nâng cao ý thức tự lực, tự cường, phát huy truyền thống quê hương cách mạng, khai thác tốt nhất tiềm năng về lao động đất đai, ngành nghề của địa phương, đoàn kết phấn đấu thực hiện tốt công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và đặc biệt là chặng đường trước mắt mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V đề ra là “tập trung phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp lên một bước sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý”[4].

Đại hội đề ra nhiệm vụ cụ thể: Đối với sản xuất nông nghiệp: “phấn đấu tận dụng hết diện tích đất đai, gieo trồng vượt mức kế hoạch diện tích vụ chiêm xuân 4.750 ha, trong đó lúa chiêm xuân 3.450 ha và 900 ha rau màu, cây công nghiệp, phát động quần chúng nhân dân trồng dâu nuôi tằm, trồng mây lấy nguyên liệu cho sản xuất thủ công; thực hiện tốt vườn cây Bác Hồ”.

Về tổ chức đời sống, lưu thông phân phối: lãnh đạo quần chúng nhân dân ăn Tết vui Xuân lành mạnh, trật tự, an toàn và tiết kiệm. Các ngành thương nghiệp, hợp tác xã mua bán chuẩn bị tốt hàng hóa phục vụ Tết với mức cố gắng nhất. Hàng hóa có đến đâu tổ chức phân phối đến đó, đảm bảo công bằng, đúng tiêu chuẩn, chú ý đến các gia đình có công với cách mạng, gia đình thương binh liệt sỹ, gia đình neo đơn, những người già và trẻ em. Thực hiện tốt phân phối điều hòa lương thực trong hợp tác xã và bù chênh lệch lương thực cho hợp tác xã thủ công nghiệp.

Về công tác an ninh, trật tự an toàn xã hội: phải bảo vệ tốt cơ quan, xí nghiệp, cửa hàng, kho tàng và tài sản của nhân dân, không để xảy ra mất trộm, mất cắp và hỏa hoạn. Bảo vệ tốt giao thông đường sắt, đường bộ, chú ý quản lý giáo dục tốt bọn lưu manh và những thanh niên hư. Thực hiện nghiêm chỉnh lệnh đăng ký nghĩa vụ quân sự, thực hiện tốt đợt tuyển quân.

Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện khóa IX (đợt II) đã diễn ra từ ngày 4 đến ngày 8-1-1983 tại Hội trường Huyện ủy. Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ 3 năm 1983-1985: Cần tập trung lực lượng, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp-tiểu thủ công nghiệp, để có nhiều lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng từng bước đảm bảo đời sống cho quần chúng, có nhiều hàng xuất khẩu, đóng góp đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước, có phần dự trữ để giải quyết hậu cần tại chỗ khi cần thiết. Lấy thâm canh tăng năng suất cây trồng phải đi đôi với tăng vụ, lấn hóa, san ghềnh lấp trũng, mở rộng diện tích canh tác, hạn chế đến mức thấp nhất việc bỏ hoang hóa ruộng đất. Đẩy mạnh chăn nuôi, tăng nguồn phân bón phục vụ cho thâm canh để tăng sản lượng lương thực, thực phẩm. Phấn đấu tăng giá trị của công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, tập trung phát triển các mặt hàng tiêu dùng phục vụ cho sản xuất, đời sống và xuất khẩu. Đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng nếp sống mới xã hội chủ nghĩa, hạ tỷ lệ tăng dân số của huyện xuống còn 1,5% vào năm 1985. Xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác y tế, đẩy mạnh hoạt động của cả ba ngành học mẫu giáo, phong trào giáo dục phổ thông và bổ túc văn hóa. Tổ chức thực hiện nghiêm cải cách giáo dục và Chỉ thị 115 của Trung ương về học bổ túc văn hóa. Tăng cường giáo dục và nâng cao ý thức cảnh giác với mọi âm mưu phá hoại nhiều mặt của kẻ địch, giáo dục ý thức sẵn sàng chiến đấu, phục vụ chiến đấu. Tiếp tục thực hiện cuộc vận động xây dựng lực lượng công an trong sạch, vững mạnh và đẩy mạnh phong trào an ninh Tổ quốc. Xây dựng Đảng bộ huyện trong sạch, vững mạnh và tổ chức quần chúng đều là đơn vị khá của tỉnh, chính quyền đạt danh hiệu vững mạnh toàn diện.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa IX gồm 31 đồng chí ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Bầu Ban Thường vụ Huyện ủy gồm chín đồng chí. Đồng chí Đặng Quỳnh Mai được bầu làm Bí thư Huyện ủy, đồng chí Nguyễn Quốc Tặng làm Phó Bí thư.

2. Phát triển kinh tế

Bước vào năm 1981, những khó khăn về kinh tế-xã hội của đất nước, của tỉnh nói chung và của huyện nói riêng không hề giảm sút, nhất là về điện, vật tư, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất thiếu nghiêm trọng. Song cơ chế quản lý đã hé mở một đường hướng mới, cởi những nút đầu tiên của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã bó chặt nền kinh tế hàng thập kỷ trước.

Quán triệt tinh thần Chỉ thị 100/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Nghị quyết số 11/NQ-TU của Tỉnh ủy Huyện ủy đã có những chính sách phù hợp. Quy mô hợp tác xã, đội sản xuất được tổ chức lại cho phù hợp với trình độ quản lý và cơ chế mới. Tính đến tháng 6-1982, toàn huyện có 05 hợp tác xã liên thôn, 10 hợp tác xã thôn. Sau khi giãn quy mô, các hợp tác xã thi hành Chỉ thị 100-CT/TW và Nghị quyết 11 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Tiên Sơn có 100% số hợp tác xã đã khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động.

Năm 1982 là năm đầu tiên thực hiện khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động, là năm sản xuất nông nghiệp của huyện thắng lợi, năm được mùa lớn, vượt các chỉ tiêu kế hoạch nhà nước. Do Huyện ủy và các cấp ủy tập trung chỉ đạo nông nghiệp và thời tiết có nhiều thuận lợi nên năm 1982, sản xuất nông nghiệp phát triển tương đối toàn diện và đồng đều ở các vùng trong huyện. Tổng sản lượng lương thực quy thóc đạt 32.518 tấn bằng 105,9% kế hoạch đề ra, riêng hợp tác xã Tân Hồng đạt 90 tạ/ha, hợp tác xã Trịnh Tháp (Châu Khê) đạt 86,7 tạ/ha. Bình quân lương thực đầu người năm 1982 đạt 375kg. Giống lúa mới NN8, 203, bao thai lùn có năng suất cao chiếm 40-50% diện tích canh tác. Chăn nuôi tập thể và gia đình phát triển mạnh. Tổng đàn gia súc năm 1981 đạt số lượng cao hơn các năm trước: trong đó trâu bò có 6.469 con; lợn có 19.782 con, đạt 102%.

Năm 1983-1985, thiên tai gây thiệt hại lớn, vụ Đông Xuân đều gặp thời tiết rét đậm, kéo dài, mạ và lúa bị chết phải gieo cấy nhiều lần, trâu bò chết rét và dịch bệnh, thiếu sức kéo nghiêm trọng (năm 1985 chết 195 con trâu bò chết rét), vụ mùa bị bão, sâu bệnh tàn phá nặng nề. Năm 1985, tổng diện tích gieo trồng 9.642 ha, năng suất đạt 21,88 tạ/1ha, tổng sản lượng lương thực chỉ đạt 20.904 tấn, bằng 62,3% kế hoạch. Chính sách thu mua, đối lưu hàng hóa nông sản của Nhà nước chưa phù hợp, chưa kích thích sản xuất, đời sống nông dân gặp nhiều khó khăn.

Năm 1983, các địa phương đã tiến hành giao khoán chăn nuôi lợn đến các hộ xã viên. Những trại chăn nuôi lớn của tập thể được thu hẹp dần bằng cách khoán công điểm, giao thức ăn, lợn giống cho xã viên nhận nuôi tại nhà. Những gia đình nuôi vượt chi tiêu số lượng đều được quy đổi ra thóc (1kg thịt lợn hơi bằng 6 kg thóc). Với các biện pháp này, đàn lợn của huyện  tăng lên đáng kể. Tuy nhiên thời kỳ này Nhà nước vẫn chưa có chính sách thích hợp khuyến khích chăn nuôi phát triển, người chăn nuôi bị gò ép bởi chế độ nghĩa vụ thực phẩm, giá cả không phản ánh đúng giá trị cho nên chưa tạo được động lực để người nông dân đầu tư phát triển chăn nuôi lợn. Hiện tượng người chăn nuôi tự ý mổ lợn chui hoặc bán cho tư thương diễn ra.

Cùng với chăn nuôi lợn, các địa phương trong huyện còn chú trọng phát triển chăn nuôi trâu bò cày kéo. Từ năm 1983, thực hiện cơ chế khoán sản phẩm theo chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương, việc chăn nuôi trâu, bò cày kéo được quy vào hệ số ruộng nhận khoán (mỗi con trâu đảm nhận từ 2,5 đến 3 mẫu ruộng-quy vào từ 3-5 hộ nuôi một con). Để đảm bảo sức kéo, một mặt các địa phương giao trâu cho các gia đình chịu trách nhiệm chăm sóc, có chế độ công điểm và thưởng phạt rõ ràng, mặt khác khuyến khích các gia đình nuôi trâu, bò sinh sản. Bên cạnh đàn trâu cày kéo của tập thể (giao cho các gia đình xã viên nhận khoán nuôi), thời kỳ này cũng có một số gia đình nuôi trâu bò riêng. Ngoài chăn nuôi gia súc, chăn nuôi gia cầm nhất là vịt, gà cũng phát triển khá mạnh. Hưởng ứng phong trào “ao cá Bác Hồ”, các địa phương và nhân dân tích cực cải tạo ao hồ nuôi cá. Để cung cấp cá giống cho tập thể và xã viên, nhiều nơi còn ươm giống. Các ao cá tập thể cũng được giao khoán cho các hộ xã viên nhận khoán chăm sóc.

Nhờ Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 và Quyết định 25-CP của Chính phủ[5] về chủ trương phát huy quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh nên sản xuất công nghiệp thời gian này phát triển khá. Các nhà máy cơ khí trực thuộc Trung ương đóng trên địa bàn huyện đều hoàn thành vượt mức kế hoạch, đồng thời tận dụng các phế liệu sản xuất thêm một số mặt hàng mới ngoài kế hoạch nhằm tăng thu nhập cho công nhân và phục vụ sản xuất. Mặc dù tiến hành trong hoàn cảnh có nhiều khó khăn về vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu, nhưng các xí nghiệp quốc doanh và hợp tác xã tiểu, thủ công nghiệp vẫn giữ vững được nhịp độ sản xuất, tạo việc làm cho công nhân. Năm 1982, sản xuất tiểu, thủ công nghiệp có tiến bộ hơn, tổng giá trị đạt 100% kế hoạch. Huyện chú trọng phát triển mạnh ngành nghề thủ công trong các hợp tác xã nông nghiệp. Năm 1982, 100% hợp tác xã nông nghiệp có ngành nghề, nhiều hợp tác xã đạt giá trị sản lượng bằng hoặc cao hơn sản xuất nông nghiệp. Sản xuất gạch ngói, mành trúc, thảm, tre nan, đồ mỹ nghệ đều vượt kế hoạch. Các hợp tác xã thủ công chuyên nghiệp được củng cố, mở rộng sản xuất, tăng thêm mặt hàng mới phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu. Hợp tác xã sơn mài (Đình Bảng, Tân Hồng), ghế mây Từ Sơn nhiều năm đạt danh hiệu tiên tiến của tỉnh và được Chính phủ tặng Huân chương Lao động hạng ba.

Công tác xây dựng cơ bản có nhiều cố gắng phục vụ tốt cho sản xuất và đời sống nhân dân. Trong các năm 1981-1985, thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân, Trung ương và địa phương cùng làm”, ở huyện đã xây dựng thêm hai trạm bơm cục bộ và cơ bản xây dựng xong các trạm bơm tiêu. Đường giao thông liên xã được rải cấp phối, hầu hết các đường liên thôn được nâng cấp. Huyện đã đầu tư vốn xây dựng rạp chiếu bóng thị trấn Từ Sơn, bệnh viện huyện, nhiều trường lớp và các thiết bị cho ngành giáo dục.

Chấp hành chính sách lưu thông phân phối của Đảng và Nhà nước, Đảng bộ huyện đã tiến hành giao mức ổn định nghĩa vụ lương thực, thực phẩm, nông sản công bằng, hợp lý, nhanh gọn đến các hợp tác xã nông nghiệp và thực hiện tốt cuộc vận động kê khai đăng ký định mức thu thuế đối với công thương nghiệp. Năm 1981-1982, huyện đã hoàn thành 4.000 tấn thóc nghĩa vụ và bán trao đổi hàng theo thỏa thuận 1.000 tấn. Các hoạt động của thương nghiệp quốc doanh, công ty bán lẻ công nghệ phẩm cấp 3, cửa hàng thực phẩm-nông sản và hợp tác xã mua bán từ khi được phân cấp quản lý cho huyện đã có nhiều cố gắng phục vụ tốt hơn cho đời sống nhân dân và sản xuất, hoàn thành vượt mức kế hoạch về doanh số mua vào bán ra. Năm 1985, sau khi có Nghị quyết 08 của Trung ương Đảng về giá-lương-tiền, tình hình càng có nhiều biến động.

Công tác xuất khẩu được chú ý. Tổng giá trị xuất khẩu bình quân hàng năm tăng hơn các năm trước 6,4 lần. Bình quân giá trị hàng xuất khẩu một người một năm tăng hơn trước 5,68 lần.

Thu chi ngân sách đã đảm bảo yêu cầu cơ bản của huyện. Tổng thu ngân sách tăng đều hằng năm và vượt chỉ tiêu kế hoạch. Ngân hàng có nhiều cố gắng giảm bội chi tiền mặt và vận động gửi tiền tiết kiệm trong cán bộ và nhân dân. Từ năm 1980-1985 số dư trên 12 triệu đồng và được Chính phủ tặng Huân chương Lao động hạng ba cho huyện Tiên Sơn và hai xã Đình Bảng, Tương Giang về thành tích vận động gửi tiền tiết kiệm.

Tuy vậy, sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng và chính quyền huyện đối với lưu thông, phân phối chưa chặt chẽ, thường xuyên, nên tổng chi ngân sách hằng năm lại tăng hơn thu ngân sách. Hoạt động thương nghiệp, tài chính, ngân hàng chưa gắn với sản xuất, chưa làm đòn bẩy thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển. Quản lý thị trường còn buông lỏng, tệ buôn lậu, trốn thuế còn xảy ra nhiều, thất thu lớn, nhất là thuế công thương nghiệp. Tình trạng tham ô, lãng phí vẫn rất nghiêm trọng, gây nhiều thiệt hại cho sản xuất và ngân sách của huyện.

3. Phát triển văn hóa-xã hội

Tuy có nhiều khó khăn về đời sống nhưng sự nghiệp giáo dục vẫn phát triển, việc thi tốt nghiệp các cấp học và thi chuyển cấp đảm bảo về chất lượng. Năm 1981 là năm học đầu tiên của lớp 1 thực hiện chương trình cải cách giáo dục.

Được sự chỉ đạo của Huyện ủy, ngành giáo dục chủ trương phát triển mạng lưới hệ thống trường lớp phù hợp với yêu cầu của địa phương, thu hút đông đảo con em nhân dân đến trường học tập, ưu tiên, khuyến khích tạo điều kiện cho con em trong diện chính sách. Năm học 1980-1981, toàn huyện có 17.471 học sinh phổ thông, có 11.049 học sinh cấp I và 3.897 học sinh cấp II thi tốt nghiệp. Số học sinh phổ thông đạt 90,2% và thi tốt nghiệp phổ thông trung học đạt 94%. Năm học 1983-1984, có 416 lớp với 16.718 học sinh phổ thông.

Thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, năm học 1982-1983 có 100% số lớp học được ngói hóa, cơ sở vật chất, trang thiết bị, trường học cao tầng thay dần các trường cấp 4. Các trường phổ thông cơ sở đều được đặt ở các khu trung tâm của xã, phường. Toàn huyện đã được công nhận phổ cập cấp I, công tác bổ túc văn hóa tiếp tục phát triển, đã phổ cập giáo dục cấp II cho các đối tượng 1 của 11 xã, thị trấn. Năm học 1984-1985, huyện đã cơ bản hoàn thành việc xóa mù và chống tái mù chữ.

Phong trào xây dựng ba công trình vệ sinh, phong trào trồng và sử dụng thuốc nam chữa bệnh, cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch được duy trì. Tỷ lệ gia tăng dân số năm 1981 của huyện là 2,6%, năm 1982 xuống còn 2,2%, năm 1983 xuống còn 2,1%, năm 1985 tỷ lệ gia tăng dân số xuống còn 1,55. Ngành y tế đã dập tắt được dịch sốt xuất huyết ở xã Tân Hồng và nhà máy Quy chế Từ Sơn.

Hoạt động thông tin đại chúng đã bám sát phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương, tuyên truyền, giáo dục truyền thống, tuyên truyền chống mê tín dị đoan. Các hoạt động văn hóa đã đi xuống cơ sở, đi vào thanh niên và các tầng lớp nhân dân bằng việc sáng tác, hội diễn nghệ thuật quần chúng. Năm 1984, toàn huyện có 9/11 xã có đài truyền thanh.

4. Công tác an ninh, quốc phòng

Công tác quân sự địa phương, cuộc vận động “Phát huy bản chất tốt đẹp, nâng cao sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân” và cuộc vận động “quân với dân một ý chí” đi vào chiều sâu. Các xã đã kiện toàn, củng cố lực lượng dân quân, tự vệ cả về chính trị lẫn tư tưởng. Lực lượng dân quân, tự vệ được tổ chức thành ba lực lượng: lực lượng sẵn sàng chiến đấu, lực lượng chiến đấu và thực tập chuyển từ trạng thái hòa bình sang thời chiến được hoàn chỉnh và thực hiện tốt. Hằng năm huyện tổ chức thực tập động viên quân dự bị. Công tác tuyên truyền giáo dục đã làm cho quần chúng nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực phản động. Việc phối kết hợp với công an tuần tra canh gác, giữ gìn an ninh trật tự xã hội được làm rất chặt chẽ và tích cực. Công tác tuyển quân hằng năm đều hoàn thành kế hoạch một cách nhanh gọn. Công tác quân sự địa phương liên tục được xếp loại khá của tỉnh. Cơ quan quân sự huyện nhiều năm liền được công nhận đơn vị quyết thắng.

Thực hiện Nghị quyết số 10/NQ-TU của Tỉnh ủy về việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trong tình hình mới và Kế hoạch số 175 để thực hiện Chỉ thị 92 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về xây dựng lực lượng công an nhân dân trong sạch vững mạnh và đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới được tổ chức thực hiện sớm, đạt kết quả tương đối tốt. Năm 1982, toàn huyện có 684 tổ an ninh nhân dân hoạt động có hiệu quả. Các xã Hương Mạc, Tân Hồng có lực lượng bảo vệ hoạt động mạnh. Huyện đã tổ chức học tập sáu điều Bác Hồ dạy công an nhân dân cho cán bộ chiến sỹ công an.

Về công tác đấu tranh chống các thế lực thù địch phá hoại về văn hóa tư tưởng, Huyện ủy xác định phải kết hợp đấu tranh chống chiến tranh tâm lý, truy quét những văn hóa phẩm đồi trụy, bài trừ mê tín, dị đoan, đấu tranh ngăn chặn các luận điệu xuyên tạc, tăng cường xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Trong những năm 1981-1985, các tổ an ninh nhân dân, lực lượng thanh niên kiểm tra, thiếu niên sao đỏ và lực lượng 831 phối hợp hoạt động mạnh mẽ, ổn định vững chắc tình hình chính trị ở địa phương.

5. Công tác xây dựng Đảng, củng cố chính quyền và các đoàn thể quần chúng

Công tác xây dựng Đảng được tiến hành trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và lề lối làm việc. Các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, của tỉnh đã được các đảng bộ trong huyện nghiêm túc phổ biến, quán triệt và thực hiện, qua đó cán bộ, đảng viên đã nâng cao được nhận thức và trách nhiệm của mình. Việc bồi dưỡng để nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên được tăng cường. Ngoài việc đưa cán bộ, đảng viên đi học các trường Đảng của tỉnh, của huyện, việc học tập tại chức cho cán bộ, đảng viên được đẩy mạnh. Ngoài ra, huyện ủy còn tập huấn cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt cơ sở về phương pháp lãnh đạo của đảng ủy cơ sở, cách làm việc và trách nhiệm của các đồng chí bí thư ở cơ sở.

Qua 5 năm (1981-1985), các cấp đã tiến hành hai lần đại hội đảng bộ, việc chỉ đạo tập trung hơn trước. Trong các đại hội, nhìn chung dân chủ nội bộ được mở rộng, tự phê bình và phê bình từ trên xuống, từ dưới lên khá sâu sắc. Qua phong trào cách mạng của quần chúng đã lựa chọn kết nạp 360 đảng viên. Việc phát thẻ đảng viên được thực hiện tốt. Đến năm 1985, huyện đã có 100% tổ chức cơ sở đảng và 95% tổng số đảng viên được nhận thẻ. Qua việc phát thẻ đã nâng cao ý thức đảng, tinh thần trách nhiệm của đảng viên.

Công tác kiểm tra giữ gìn kỷ luật của Đảng được thực hiện nghiêm túc, dân chủ, đã thực hiện kiểm tra theo chương trình, kế hoạch, thi hành các chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Trong 3 năm (1980-1982), Đảng bộ huyện và các cơ sở đã đưa 40 người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng, xóa tên 32 người. Qua các đợt sinh hoạt chính trị, qua đại hội các cấp, trình độ, năng lực của cán bộ, đảng viên được nâng lên. Đại hội ở cở sở đã thay một bí thư đảng ủy, tám chủ tịch ủy ban nhân dân xã, các cán bộ được đề bạt đều phát huy tác dụng tốt.

Thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, nhiều cấp ủy đảng đã chú ý củng cố chính quyền và các đoàn thể quần chúng. Thông qua bầu cử hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân các xã được kiện toàn có chất lượng hơn. Công tác xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện đã có những bước chuyển biến, các ngành kinh tế, văn hóa của tỉnh đã bàn giao các cơ sở kinh tế, văn hóa cho huyện quản lý. Sau phân cấp, trách nhiệm của huyện được tăng cường từ cấp quản lý hành chính chuyển sang cấp quản lý hành chính, kinh tế, văn hóa, xã hội.

Đoàn Thanh niên thông qua các đợt sinh hoạt chính trị, quán triệt Nghị quyết Đại hội đoàn, Nghị quyết Đại hội Đảng, giác ngộ lý tưởng cộng sản và chủ nghĩa xã hội được nâng cao thêm một bước. Phong trào “ba xung kích làm chủ tập thể”, “cuộc hành quân theo chân những người anh hùng”, làm thủy lợi, củng cố và xây dựng đội giống, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, thực hiện vượt mức kế hoạch sản xuất trong nông nghiệp, công nghiệp, học tốt, dạy tốt trong các trường học được đoàn viên và thanh niên thực hiện có hiệu quả. Công tác phát triển đoàn viên được triển khai thực hiện một cách nghiêm túc. Đồng thời đã tổ chức xây dựng các đội Nhi đồng, Thiếu niên tiền phong ngày một lớn mạnh.

Hội Liên hiệp Phụ nữ có nhiều tiến bộ, phong trào “người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” được phát động liên tục sâu rộng đến từng hội viên. Phong trào nuôi con khỏe, dạy con ngoan, sinh đẻ có kế hoạch, thực hiện chính sách hậu phương quân đội, nhận đỡ đầu con liệt sỹ, thực hiện vượt mức khoán trong nông nghiệp được đông đảo hội viên thực hiện.

Mặt trận Tổ quốc huyện đã thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết và tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Cuộc vận động “mua công trái xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, “hội vui tuổi già”… đã mang lại những hiệu quả thiết thực.

Sau 10 năm (1976-1985) trải qua khó khăn chồng chất, đất nước vừa ra khỏi của chiến tranh kéo dài suốt 30 năm (9 năm kháng chiến chống Pháp, 21 năm kháng chiến chống Mỹ), chưa kịp hàn hắn vết thương chiến tranh thì xẩy ra hai cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc; các thế lực thù địch trong và ngoài nước cấu kết tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt chống phá cách mạng nước ta; đất nước bị bao vây cấm vận; thiên tai xảy ra liên tiếp; cơ chế quản lý quan liên bao cấp theo kế hoạch tập trung lạc hậu, lỗi thời kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển; kinh tế-xã hội lâm vào khủng khoảng trầm trọng và sâu sắc, đời sống nhân dân cực kỳ khó khăn, trong vào hơn mười năm đã diễn ra hai cuộc đổi tiền (1978, 1985), làm cho thị trường bị đảo lộn. Tuy nhiên, Đảng ta đã sớm nhận ra những sai lầm khuyết điểm để sửa chữa trước hết là trong sản xuất nông nghiệp với Chỉ thị 100-CT-TW của Ban Bí thư Trung ương về cơ chế khoán trong nông nghiệp đã bước đầu mở ra con đường mới tiến tới đườg lối đổi mởi năm 1986. Từ Sơn cũng nằm trong tình trạng khó khăn chung của cả nước, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, của tỉnh và trực tiếp là sự lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện Tiên Sơn, Đảng bộ và nhân dân Từ Sơn đã vượt qua những khó khăn thách thức đó, vươn lên đạt được những thành tựu đáng kể trên các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, góp phần thúc đẩy nền kinh tế-xã hội của huyện phát triển, ổn định chính trị, tạo tiền đề cho những bước phát triển tiếp theo.

F. Từ Sơn thực hiện công cuộc đổi mới (1986 - 1999)

I. THỜI KỲ ĐẦU THỰC HIỆN CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA (1986-1990)

1. Đại hội Đảng bộ Tiên Sơn lần thứ X

Từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã họp tại thủ đô Hà Nội. Đại hội đã đề xướng đường lối đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Trước hết là đổi mới tư duy và trọng tâm là đổi mới kinh tế. Trên tinh thần đó, Đại hội xác định “Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế-xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”[1]. Những mục tiêu cụ thể trước mắt (1986-1990) là tập trung sức người, sức của thực hiện bằng được nhiệm vụ, mục tiêu của ba chương trình về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Có thể nói, đường lối đổi mới đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đề ra đã thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, sự nhạy bén sáng suốt, đúng đắn của Đảng ta về xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Nhằm triển khai công cuộc đổi mới theo tinh thần Đại hội lần thứ VI của Đảng vào thực tiễn địa phương, từ ngày 10 đến ngày 14-9-1986, Đảng bộ huyện Tiên Sơn tổ chức Đại hội lần thứ X. Tham dự Đại hội có 203 đại biểu chính thức. Đồng chí Lê  Quang Đạo, Bí thư Trung ương Đảng cùng 50 đại biểu cấp trên và đại biểu danh dự đã về dự Đại hội. Đại hội đã tập trung nghiên cứu và đóng góp ý kiến vào bảo Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội VI của Đảng và Dự thảo Báo cáo chính trị của Đảng bộ tỉnh Hà Bắc; tổng kết công tác của Đảng bộ huyện Tiên Sơn (khóa IX); xác định phương hướng nhiệm vụ Đảng bộ huyện Tiên Sơn khóa X. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa X gồm 49 ủy viên, gồm 39 ủy viên chính thức, 10 ủy viên dự khuyết. Bầu 24 đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VII. Ngày 23-9-1986, Huyện ủy khóa X bầu đồng chí Đặng Quỳnh Mai làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Thế Chăn và đồng chí Nguyễn Quốc Tặng làm Phó Bí thư. Tháng 12-1986, Tỉnh ủy cử đồng chí Nguyễn Thạc Giáp về làm Bí thư Huyện ủy thay đồng chí Đặng Quỳnh Mai đi nhận công tác khác.

Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng và qua hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ X, với tinh thần cần cù, sáng tạo của nhân dân, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân phấn đấu đạt và vượt hầu hết các chỉ tiêu kinh tế-xã hội đề ra, làm cho bộ mặt kinh tế-xã hội của huyện phát triển. Tuy vậy, vẫn còn một số hạn chế như kinh tế còn tăng chậm, chưa vững chắc, chưa toàn diện, kỹ thuật lạc hậu, năng suất thấp, việc củng cố quan hệ sản xuất còn nhiều lúng túng, cơ cấu kinh tế còn mất cân đối, giá cả thị trường diễn biến phức tạp, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn…, công tác xây dựng đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng còn nhiều bất cập, tình hình tiêu cực xã hội vẫn ngày một tăng…

Sau 7 năm đi vào thực hiện, đến năm 1988, cơ chế khoán 100 trong sản xuất nông nghiệp ngày càng bộc lộ rõ những hạn chế: mức giao nộp khoán quá cao không sát với thực tế, người nông dân không đủ sản phẩm để giao nộp cho tập thể nên tình trạng khê đọng sản phẩm khá phổ biến; một số nông dân xin trả lại ruộng khoán cho hợp tác xã; các khâu do hợp tác xã đảm nhận ngày càng không được đáp ứng đầy đủ trước yêu cầu của xã viên, nhất là trong việc điều tiết nước, phân bón và làm đất; bộ máy quản lý của hợp tác xã cồng kềnh, chồng chéo, kém hiệu quả trong việc quản lý và chỉ đạo sản xuất. Những hạn chế đó vừa xuất phát từ điều kiện cụ thể của địa phương, vừa nằm trong bối cảnh chung của nền nông nghiệp nước ta, khoán 100 chưa phát huy sức sáng tạo, chủ động trong sản xuất của người nông dân, chưa giải phóng triệt để sức sản xuất. Để khắc phục tình trạng đó, ngày 5-4-1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 10 NQ/BCT về đổi mới cơ chế khoán: thực hiện khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động; xoá bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, chuyển sang hạch toán kinh doanh có lãi; nâng cao trình độ quản lý, tinh giảm bộ máy quản lý hợp tác xã. Có thể nói Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị như một luồng sinh khí mới, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển và làm thay đổi căn bản nền kinh tế nông nghiệp và nông thôn Từ Sơn.

2. Đại hội Đảng bộ Tiên Sơn lần thứ XI

Nhằm quán triệt tinh thần khoán 10 của Bộ Chính trị đi vào cuộc sống, từ ngày 27 đến 29-10-1988, Đại hội lần thứ XI Đảng bộ Tiên Sơn được tiến hành tại Hội trường núi Lim. Đại hội đã thông qua Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ X và phương hướng nhiệm vụ công tác khóa XI (1988-1990).

Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm trong việc lãnh đạo nhân dân thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội nhiệm kỳ X (1986-1988), Đại hội khóa XI đã đề ra phương hướng phát triển kinh tế-xã hội là: Quán triệt Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Bắc lần thứ VII, với tinh thần đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế… tập trung thực hiện bằng được ba chương trình kinh tế lớn; giải phóng mọi năng lực sản xuất, đẩy mạnh phát triển nông nghiệp - tiểu thủ công nghiệp; kết hợp chặt chẽ giữa sản xuất với phân phối lưu thông, tăng nhanh khối lượng sản phẩm hàng hóa, phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu; từng bước ổn định đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; hoàn thành nghĩa vụ với Nhà nước, giữ vững trật tự an ninh; tăng cường đổi mới công tác tư tưởng, tổ chức, cán bộ… xây dựng Đảng bộ huyện vững mạnh và từng bước xây dựng huyện có cơ cấu kinh tế nông nghiệp-tiểu thủ công nghiệp hoàn chỉnh.

Đại hội xác định mục tiêu kinh tế-xã hội chủ yếu năm 1989-1990: Sản xuất nông nghiệp: Tổng sản lượng lương thực đạt từ 75.000-80.000 tấn một năm, bình quân lương thực trên đầu người hàng năm lên 400kg, ổn định 1.000 ha cây công nghiệp ngắn ngày, khuyến khích nông dân trồng cây dược liệu phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. Đẩy mạnh phát triển chăn nuôi, đưa tổng số đàn trâu, bò lên 9.000 con, 50.000 đầu lợn để phục vụ đời sống, sản xuất và xuất khẩu. Sản xuất tiểu thủ công nghiệp: Tổng giá trị sản lượng đạt 102 triệu đồng trong đó xuất khẩu đạt 20-25 triệu đồng.

Xây dựng cơ bản: Hoàn thành các công trình thủy lợi Tân Chi, Cống Thôn, xây dựng kiên cố Trường phổ thông trung học Từ Sơn… theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm.

Phát triển sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao: hoàn thành phổ cập giáo dục cấp I cho thanh thiếu niên, xóa nạn mù chữ trong nhân dân. Nâng cao chất lượng dạy và học trong các trường phổ thông. Tăng cường cơ sở vật chất và nâng cao chất lượng khám chữa bệnh. Hạ tỷ lệ tăng dân số xuống 1,4%. Đẩy mạnh các phong trào xây dựng nếp sống văn hóa mới, các hoạt động văn hóa, văn nghệ-thể dục thể thao.

Đời sống: từng bước ổn định đời sống nhân dân, đảm bảo mức ăn bình quân đầu người 20kg lương thực, 0,5kg thực phẩm/1 tháng, 3m vải/1 năm; 95% số hộ trở lên được ngói hóa về nhà ở. Tăng cường các điều kiện, phương tiện đi lại, học tập, giải trí, chữa bệnh. Thực hiện tốt chính sách xã hội, nhất là với các gia đình liệt sỹ, thương, bệnh binh, gia đình có công với cách mạng, cán bộ hưu trí.

Công tác quân sự địa phương và phong trào Bảo vệ an ninh Tổ quốc: Hoàn thành gọi thanh niên nhập ngũ, thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội. Phát động phong trào toàn dân bảo vệ trật tự an toàn xã hội, an ninh Tổ quốc. Kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý những hoạt động phạm pháp, góp phần giữ vững kỷ cương xã hội.

Để thực hiện những mục tiêu chủ yếu trên đây, Đại hội lần thứ XI của Đảng bộ huyện đã nhất trí thông qua một loạt các giải pháp, biện pháp theo tinh thần đổi mới về sắp xếp tổ chức sản xuất, đổi mới về quan hệ sản xuất, đổi mới về công tác đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng.

Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ khóa XI gồm 33 ủy viên chính thức, 6 ủy viên dự khuyết. Trong số 39 huyện ủy viên khóa XI, có 30 đồng chí tái cử. Tuổi đời bình quân của huyện ủy khóa XI là 41,4; có sáu đồng chí dưới 35 tuổi, 4 đồng chí nữ. Ngày 12-11-1988, Huyện ủy họp, bầu đồng chí Nguyễn Thạc Giáp làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Quốc Tặng và đồng chí Nguyễn Thế Chăn làm Phó Bí thư; Ban Thường vụ Huyện ủy gồm tám đồng chí.

Ngày 1-1-1990, đồng chí Nguyễn Sỹ, tỉnh ủy viên được cử về làm Bí thư Huyện ủy thay đồng chí Nguyễn Thạc Giáp đi nhận nhiệm vụ khác. Bước vào năm 1990, Huyện ủy tích cực chỉ đạo công tác tư tưởng và tổ chức để các cơ sở đảng trong huyện chuẩn bị tiến tới Đại hội Đảng vòng 1 vào cuối năm. Ngày 23-10-1990, đồng chí Nguyễn Quốc Tặng, Phó Bí thư Huyện ủy nghỉ chế độ, Huyện ủy đã bầu đồng chí Nguyễn Công Ngọ, Ủy viên Ban Thường vụ làm Phó Bí thư Huyện ủy.

3. Thành quả bước đầu của công cuộc đổi mới (1986-1990)

Phát triển kinh tế. Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI và Nghị quyết Đại hội huyện Đảng bộ lần thứ X, XI, nông nghiệp được đặt ở vị trí hàng đầu, được các cấp lãnh đạo đảng và chính quyền tập trung chỉ đạo sát sao. Theo tinh thần nội dung Nghị quyết 10 của Bộ chính trị, huyện đã thực hiện cải tiến cơ chế khoán sản phẩm: giao đất 10% phát triển kinh tế gia đình, kết hợp với tăng cường công tác quản lý, củng cố hợp tác xã, xóa bỏ dần bao cấp tràn lan trong ăn chia, phân phối. Mặt khác, việc đầu tư phát triển nông nghiệp, nhất là công tác thủy lợi, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, thâm canh, giống cây trồng đã tạo điều kiện cho sản xuất nông nghiệp có bước tiến bộ rõ rệt.

Diện tích, năng suất và sản lượng lương thực mỗi năm đều tăng. Trong 4 năm (1986-1989) bình quân diện tích gieo cấy của cả huyện 22.304,87 ha/năm, năng xuất lúa bình quân đạt 30,86 tạ/ha, tổng sản lượng lương thực đạt 252.064,4 tấn, bình quân mỗi năm đạt 63.016,1 tấn.

Chăn nuôi do sự chuyển đổi về chính sách đất đai (khoán 10) nên kích thích chăn nuôi gia đình phát triển, sản lượng thịt lợn hơi, các gia cầm đều tăng. Năm 1986, toàn huyện có 41.977 con lợn, tăng 14,5% so với năm 1985; có 7.460 con trâu bò, so với năm 1985 tăng 7,1%. Năm 1990, toàn huyện có 47.818 con lợn, đạt 13,9% kế hoạch, bằng 105,1% so với năm 1989.

Thời kỳ này nông nghiệp của huyện có nhiều tiến bộ. Đó là do Đảng và chính quyền các cấp đã có những chủ trương, chính sách, biện pháp đúng trong việc vận dụng quan điểm, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước về phát triển nông nghiệp, như việc tiếp thu và ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật về các giống mới có năng suất cao, chịu úng, chịu rét, phù hợp với đặc điểm thổ nhưỡng ở từng địa phương. Mặt khác, việc bố trí hợp lý cơ cấu cây trồng, làm thủy lợi, cải tạo đất, tưới tiêu kịp thời, chăm sóc, phòng ngừa sâu bệnh được coi trọng hơn trước. Trong đó, đã xuất hiện các điển hình về năng suất lúa cao như Đồng Nguyên, Đồng Quang, Phù Khê, Hương Mạc… Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp vẫn phát triển chậm, chưa vững chắc, chưa toàn diện, còn ở tình trạng tự cấp, tự túc, năng suất, sản lượng còn thấp.

Sản xuất tiểu, thủ công nghiệp: chính sách đổi mới của Đảng nêu cao vai trò tự chủ sản xuất kinh doanh đã khuyến khích các cơ sở mở rộng liên kết, liên doanh để giải quyết các vấn đề vật tư, nguyên liệu, trang bị kỹ thuật. Đặc biệt việc Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế, kể cả hộ cá thể, tư nhân có tay nghề lao động, tiền vốn tiến hành sản xuất các mặt hàng truyền thống, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu… nên ngành tiểu thủ công nghiệp từ năm 1986 trở đi có sự phát triển tương đối khá. Trong đó một số ngành nghề như đồ gỗ, sắt thép, vật liệu xây dựng và xây dựng phát triển mạnh. Do vậy, sản lượng tiểu, thủ công  nghiệp ngày một tăng, đáp ứng được yêu cầu hàng hóa tiêu dùng và xuất khẩu của huyện, đặc biệt đã giải quyết được công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động. Nhờ sự phát triển của tiểu thủ công nghiệp mà kim ngạch xuất khẩu của huyện ngày càng tăng, năm 1990 đạt 20 triệu đồng, bằng 95,2% kế hoạch. Tổng giá trị từ tiểu thủ công nghiệp tăng mạnh từ 8,021 tỷ năm 1986, lên 98 tỷ đồng năm 1990. Trong 5 năm (1986-1990), đạt 391,759 tỷ đồng, bình quân mỗi năm đạt 97,94 tỷ đồng.

Công tác thủy lợi, áp dụng cơ chế mới (khoán gọn công trình) và đầu tư có trọng điểm, vì vậy công tác thủy lợi, giao thông, xây dựng cơ bản liên tục tăng cả về vốn đầu tư và số lượng công trình. Năm 1987-1988, huyện xây dựng 6 trạm bơm, 8 công trình điện và 1 số công trình thủy lợi nhỏ khác trị giá gần 2 tỷ đồng. Năm 1989, đắp đê Ngũ Huyện Khê vượt 2,9% kế hoạch, rải cấp phối mặt đê Đại Hà. Huyện đã chỉ đạo hoàn thành việc tu sửa, nạo vét một số công trình thủy nông trọng điểm như trạm bơm Trịnh Xá, Phù Khê…

Giao thông: Được sự đầu tư của Nhà nước, kết hợp với đóng góp của nhân dân, huyện đã triển khai tu sửa, nâng cấp, làm mới các tuyến đường liên thôn, liên xã đều được rải cấp phối, nhiều làng, xã đã rải bê tông, hoặc lát gạch tạo điều kiện cho việc đi lại, giao lưu hàng hóa ngày càng dễ dàng, thuận lợi. Trên cơ sở hệ thống đường sá được cải thiện, các phương tiện vận tải, nhất là vận tải cơ giới phát triển mạnh.

Thông tin bưu điện: Thời kỳ này có bước tiến liên tục, mạng lưới thông tin liên lạc phát triển đồng bộ, đảm bảo được yêu cầu phát triển kinh tế, văn hóa và phục vụ đời sống của nhân dân. Việc thông tin trong huyện, trong tỉnh, trong nước và nước ngoài đã thuận tiện và nhanh chóng hơn trước. Nhiệm vụ phát hành, chuyển các loại báo chí, công văn, giấy tờ luôn đảm bảo chính xác và kịp thời.

Xây dựng cơ bản: Do chính sách đổi mới và phát huy tiềm lực, thế mạnh của huyện nhà, từ năm 1986 trở đi, công tác xây dựng cơ bản đạt được nhiều thành tựu to lớn. Năm 1986, xí nghiệp xây dựng của huyện được thành lập đã bắt tay ngay vào việc xây dựng nhà hát thị trấn Từ Sơn, bệnh viện huyện và nhiều công trình thủy lợi, trạm điện, trạm xã, trường học… Trong các năm 1987-1989, huyện đã xây dựng 10 trường học kiên cố, 04 trạm xã, 08 trụ sở UBND xã, 04 cửa hàng hợp tác xã mua bán, 06 trạm bơm, 08 công trình điện, 10 nghĩa trang liệt sỹ… Tổng nguồn vốn xây dựng cơ bản 3 năm là 3.500 triệu đồng. Năm 1990, số vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản đạt 1,5 tỷ đồng (so với năm 1989 đạt 110%). Tuy nhiên, công tác xây dựng các công trình còn dàn trải, chắp vá, nhỏ bé. Nhiều công trình còn kéo dài, lãng phí, hiệu quả còn thấp.

Công tác phân phối lưu thông: Từ năm 1986, huyện tiến hành sắp xếp hệ thống cán bộ, mạng lưới cửa hàng, cửa hiệu và đổi mới về phương thức hoạt động của ngành thương nghiệp. Công tác huy động lương thực, thực phẩm, nông sản hàng hóa ngày càng tăng. Chuyển biến rõ rệt nhất là trong các hoạt động lưu thông phân phối đã có nhiều đổi mới về phương thức hoạt động, thích nghi với cơ chế thị trường đang hình thành như mở thêm nhiều cửa hàng tại chỗ, quầy hàng di động, khoán doanh số tới các mậu dịch viên, giảm lao động gián tiếp, sắp xếp lại bộ máy quản lý, sản xuất theo phương châm mua bán, kinh doanh có lãi. Năm 1986, tổng thu ngân sách toàn huyện mới đạt 113.154.000đ (tăng 13% so với kế hoạch), đến năm 1990 lên tới 2.290.479.597đ (so với năm 1989 đạt 108%). Hiện tượng cửa quyền và vi phạm nguyên tắc quản lý tiền tệ trong hoạt động ngân hàng chậm được khắc phục, vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả không cao, bội chi tiền mặt ngày càng tăng, tỷ trọng hàng xuất khẩu chưa tương xứng với tiềm năng kinh tế và thế mạnh về ngành nghề của nhân dân trong huyện.

Sự nghiệp giáo dục. Phong trào thi đua hai tốt cùng với việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện được đẩy mạnh và có những chuyển biến nhất định. Việc tu sửa, xây dựng cơ sở vật chất, trường học và chăm lo đời sống của thầy cô giáo được chú ý hơn. Tình trạng học ba ca cơ bản được khắc phục. Do đó cả ba ngành học mầm non, phổ thông, bổ túc văn hóa đều có chuyển biến tốt. Năm 1986, ngành giáo dục mầm non đã thu hút được 50% số cháu trong độ tuổi đến lớp. Đến năm 1990, có 138 lớp với 2.720 cháu. Nhà trẻ, mẫu giáo có 192 lớp với tổng số 6.176 cháu. Giáo dục phổ thông gặp nhiều khó khăn do tác động của mặt trái của cơ chế thị trường. Năm học 1987- 1988, chỉ đạt 58%; năm học 1988-1989 có 12,9% học sinh cấp II bỏ học.

Sự nghiệp giáo dục phổ thông có nhiều tiến bộ về công tác quản lý nhà trường, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và đạt được những kết quả đáng khích lệ. Đội học sinh giỏi của huyện xếp thứ ba toàn tỉnh. Ngành giáo dục huyện đạt loại xuất sắc của tỉnh, công đoàn giáo dục huyện được nhận cờ Công đoàn giáo dục mạnh toàn quốc. Năm học 1989-1990, toàn huyện có 8.535 cháu trong độ tuổi nhà trẻ, mẫu giáo đến lớp, hệ thống trường phổ thông cấp I có 747 lớp, 2.903 học sinh, cấp II có 22 lớp, 8.680 học sinh. Ngành giáo dục huyện được xếp loại tiên tiến của ngành giáo dục Hà Bắc. Trong công tác giáo dục vẫn còn một số tồn tại, hạn chế, chưa đáp ứng được so với yêu cầu phát triển của xã hội. Cơ sở vật chất, trường học còn sơ sài, đơn giản. Đội ngũ cán bộ, giáo viên chưa đồng bộ, ổn định. Đời sống còn nhiều khó khăn, công tác quản lý giáo dục còn nhiều lúng túng, thậm chí ở một bộ phận cán bộ nhân dân còn chưa nhận thức đúng về vị trí, vai trò của sự nghiệp giáo dục- đào tạo.

Phong trào học bổ túc văn hóa được duy trì, trong đó các xã Đồng Quang, Hương Mạc, Đồng Nguyễn phát triển khá sôi nổi. Đến năm 1990, toàn huyện có 08 lớp bổ túc văn hóa với 385 học viên. Phong trào xóa nạn mù chữ vượt 16% kế hoạch.

Công tác y tế chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Ngành y tế của huyện đã thực sự đổi mới về tổ chức cũng như chuyên môn. Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân được coi trọng. Phong trào vệ sinh phòng bệnh, xây dựng ba công trình vệ sinh, tiêm chủng mở rộng phòng các loại bệnh cho các cháu nhỏ, phụ nữ có thai được duy trì thường xuyên. Công tác tiêm chủng để phòng 06 bệnh thông thường của trẻ em được tổ chức chặt chẽ. Ngành y tế chỉ đạo chặt chẽ công tác diệt chuột và kiểm tra công tác vệ sinh ở những nơi công cộng phòng chống những bệnh dịch hạch, dịch tả. Huyện kịp thời chỉ đạo ngành y tế có biện pháp tích cực trong việc dập dịch sốt xuất huyết xảy ra trong năm. Năm 1989, huyện quan tâm chỉ đạo phòng chống dịch bệnh, một số chương trình được triển khai như tiêm chủng mở rộng, chống bệnh tiêu chảy, uốn ván, bệnh phong. Chương trình tiêm chủng mở rộng đã có nhiều cố gắng. Các công trình vệ sinh được các địa phương chỉ đạo sát sao hơn so với những năm trước. Công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình thường xuyên có những chuyển biến tốt. Huyện cũng đầu tư xây dựng Trung tâm kế hoạch hóa gia đình. Tỷ lệ gia tăng dân số xuống còn 1,48%.

Công tác văn hóa thông tin, văn nghệ, thể dục thể thao phát triển mạnh từ huyện đến cơ sở, góp phần tích cực vào việc phục vụ công cuộc đổi mới, nhất là thực hiện thắng lợi ba chương trình kinh tế và nâng cao đời sống tinh thần của toàn dân. Huyện ủy tập trung chỉ đạo tuyên truyền giáo dục xây dựng tư duy mới, nhận thức đúng đắn về chủ trương, đường lối đổi mới của Trung ương Đảng cũng như của Đảng bộ địa phương. Vận động toàn dân xây dựng nếp sống mới, gia đình văn hóa, tổ chức cưới xin, ma chay, lễ hội, lễ tết theo nếp sống mới, các hoạt động mê tín dị đoan giảm rõ rệt.

Hoạt động văn hóa thông tin-thể dục thể thao được phát triển mạnh mẽ từ huyện đến cơ sở. Nhiều địa phương đã có đội văn nghệ quần chúng sôi nổi như Đình Bảng, Tam Sơn, Tân Hồng, Châu Khê… Phong trào thể thao phát triển khá đồng đều về các môn như bóng chuyền, cầu lông, vật, đá cầu, bóng bàn, lôi cuốn 86% số đơn vị tham gia. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ- thể dục, thể thao, thông tin tuyên truyền được đẩy mạnh và duy trì thường xuyên, phục vụ thiết thực cho việc nâng cao sức khỏe cho quần chúng, phục vụ lao động sản xuất, đáp ứng yêu cầu vui chơi giải trí cho tuổi trẻ và giáo dục nếp sống văn hóa mới cho mọi tầng lớp nhân dân.

Huyện ủy rất chú trọng chỉ đạo thực hiện các chính sách xã hội như đảm bảo các chế độ trợ cấp, lương hưu, chế độ khám, chữa bệnh cho các đối tượng chính sách. Năm 1987, huyện đã trích 1.665.740đ và 100 tấn thóc để trợ cấp khó khăn cho các gia đình liệt sỹ, thương bệnh binh, người tàn tật…

Công tác quốc phòng, an ninh. Từ năm 1986, công tác quân sự địa phương và an ninh trật tự cũng có những chuyển biến tích cực. Năm 1988, toàn huyện đã thực hiện việc rà soát bổ sung, hoàn thiện phương án tác chiến phòng thủ trên địa bàn; tổ chức và thực hiện tốt cuộc diễn tập quân sự nhằm đáp ứng việc chuyển trạng thái từ thời bình sang thời chiến và tác chiến phòng thủ khu vực, đồng thời làm tốt công tác huấn luyện dân quân, tự vệ, quản lý quân dự bị động viên, tuyên truyền giáo dục và tuyển chọn gọi thanh niên nhập ngũ đạt 100% chỉ tiêu cả năm. Đảm bảo lực lượng thường xuyên sẵn sàng chiến đấu, có 41/42 đơn vị tự vệ đã hoàn thành công tác huấn luyện.

Huyện ủy tăng cường chỉ đạo các ngành chức năng đẩy mạnh việc truy quét các đối tượng hình sự trên địa bàn, kịp thời xử lý các vụ xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, tệ nạn xã hội, vi phạm trật tự an toàn xã hội. Do làm tốt công tác xây dựng lực lượng và tổ chức phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, an ninh trật tự, an toàn xã hội được giữ vững, góp phần tích cực phục vụ công cuộc đổi mới toàn diện của quê hương.

Công tác quốc phòng an ninh đã cố gắng vươn lên hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Năm 1989, 100% đơn vị hoàn thành kế hoạch huấn luyện dân quân tự vệ. Tuyển quân đạt 100% kế hoạch, huyện đã thành lập tiểu đoàn dự bị. Ngoài ra huyện còn tiến hành tập trung cải tạo các đối tượng hình sự, ngăn chặn kịp thời tệ nạn mê tín dị đoan, lưu hành các văn hóa phẩm đồi trụy.

Tuy nhiên công tác quốc phòng, an ninh vẫn còn một số mặt hạn chế như việc tuyển quân, tuy đạt đủ chỉ tiêu số lượng, song chưa đạt yêu cầu cao về chất lượng. Tình hình phạm tội, nhất là trong thanh, thiếu niên có chiều hướng gia tăng. Công tác giáo dục tuyên truyền và tổ chức quần chúng tham gia công tác quốc phòng, an ninh chưa được duy trì thường xuyên, sâu rộng.

4. Công tác xây dựng đảng, chính quyền và các đoàn thể chính trị-xã hội

Công tác xây dựng Đảng. Năm 1987, Huyện ủy đã chỉ đạo tổ chức cho cán bộ, đảng viên học tập quán triệt và thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Nghị quyết 02, Nghị quyết 03 của Ban Chấp hành Trung ương về đường lối đổi mới và nghiên cứu, học tập Nghị quyết 04 của Bộ Chính trị về cuộc vận động làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức đảng, các nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa VII. Nhìn chung việc triển khai nghiên cứu, học tập nghị quyết của Đảng các cấp được tổ chức kịp thời. Số đảng viên tham gia học tập đạt tỷ lệ trên 80%. Qua các đợt học tập, nhận thức của đảng viên có những chuyển biến rõ rệt.

Năm 1987, Huyện ủy tổ chức cho 165 đảng viên học lớp lý luận sơ cấp tại chức và tập trung, 69 học viên đã hoàn thành chương trình trung cấp lý luận tại chức. Nhờ làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác-Lênin, về đường lối chính sách đổi mới của Đảng, sự đổi mới tư duy trong đảng bộ, không khí trong sinh hoạt đảng cởi mở, thẳng thắn, dân chủ hơn… Cách nghĩ, cách làm, tính tự chủ, năng động, sáng tạo và ý thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên có chuyển biến tích cực theo xu thế đổi mới.

Huyện ủy đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng chi, đảng bộ vững mạnh, giữ vững nền nếp sinh hoạt, đổi mới nội dung và hình thức sinh hoạt đảng. Đến tháng 6-1988, đảng bộ Tiên Sơn có 6.947 đảng viên, trong đó đảng viên nữ 975 đồng chí, đảng viên hưu trí, mất sức 2.209 đồng chí, đảng viên ở nông thôn 5.556 đồng chí. Huyện ủy chỉ đạo sắp xếp lại tổ chức, tinh giản biên chế, tăng cường hiệu lực và tính hiệu quả trong công tác.

Công tác tổ chức hướng trọng tâm vào nhiệm vụ củng cố tổ chức cơ sở Đảng, làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tinh thần Nghị quyết 04 của Bộ Chính trị và Chỉ thị 14 của Tỉnh ủy. Công tác kiểm tra đảng luôn được duy trì thường xuyên, chủ yếu tập trung vào việc kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ đảng gắn liền với việc xử lý kỷ luật đảng viên, phục vụ cho công tác củng cố cơ sở đảng, làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của đội ngũ đảng viên. Công tác phát triển đảng viên luôn được đảng bộ chú trọng. Từ 1986-1990, Đảng bộ Huyện kết nạp 303 đảng viên mới.

Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng vẫn còn một số mặt hạn chế như phong trào xây dựng chi bộ, đảng bộ vững mạnh chuyển biến chậm. Chế độ sinh hoạt đảng ở một số cơ sở chưa đi vào nền nếp, nội dung, chất lượng, tính chiến đấu trong sinh hoạt ở nhiều chi bộ ở nông thôn còn yếu. Việc quản lý đảng viên trong tổ chức và ngoài xã hội còn lỏng lẻo, ý chí phấn đấu, tinh thần trách nhiệm của một bộ phận đảng viên giảm sút, quy hoạch cán bộ còn chắp vá, lúng túng, bị động. Số cán bộ chủ chốt các ban ngành, cơ sở tuổi cao, sức khỏe yếu, năng lực hạn chế chưa được thay thế kịp thời. Công tác kiểm tra đảng viên chưa đáp ứng được yêu cầu kế hoạch đề ra.

Công tác củng cố chính quyền. Ngày 19-4-1987, cử tri toàn huyện đã đi bầu đại biểu Hội đồng nhân dân huyện khóa XII và Hội đồng nhân dân xã. Hội đồng nhân dân huyện khóa XII gồm 60 đại biểu, đã bầu ra Ủy ban nhân dân gồm 13 ủy viên do ông Nguyễn Thế Chăn làm Chủ tịch. Sau cuộc bầu cử, hệ thống chính quyền từ huyện tới xã được kiện toàn một bước theo tinh thần đổi mới. Vai trò quản lý kinh tế, quản lý xã hội của các cấp chính quyền theo pháp luật được tăng cường.

Ngày 19-11-1989, cử tri toàn huyện đã đi bầu hội đồng nhân dân ba cấp. Hội đồng nhân dân huyện khóa XIII gồm 48 đại biểu do ông Nguyễn Quốc Tặng làm Chủ tịch, ông Nguyễn Đức Tuất làm Phó Chủ tịch, ông Dương Đức Long làm thư ký. Hội đồng có Ban Kinh tế-kế hoạch và ngân sách; Ban Văn hóa-xã hội, đời sống và Ban Pháp chế. Ủy ban nhân dân do Hội đồng khóa XIII bầu ra gồm 9 ủy viên do ông Nguyễn Thế Chăn làm Chủ tịch, ông Nguyễn Ngọc Quyến và ông Đỗ Quang Quyển làm Phó Chủ tịch. Tháng 7-1992, ông Đỗ Quang Quyển được cử làm Chủ tịch thay ông Nguyễn Thế Chăn về nghỉ hưu. Sau bầu cử, Huyện ủy tiếp tục chỉ đạo kiện toàn Ủy ban nhân dân xã, thị trấn, công tác chính quyền đi vào hoạt động theo luật định. Năm 1990, Huyện ủy chỉ đạo thực hiện Quyết định 172-UB của Ủy ban nhân dân tỉnh về quy chế quản lý thôn, toàn huyện 144 thôn của 27 xã và thị trấn.

Tuy nhiên, công tác xây dựng và củng cố chính quyền còn nhiều nhược điểm. Việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ chưa được coi trọng đúng mức, trình độ năng lực và phẩm chất chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Chức năng của chính quyền và cấp ủy đảng còn lẫn lộn, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu của công cuộc đổi mới đặt ra.

Trong giai đoạn này, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện, của các tổ chức quần chúng từng bước đổi mới về tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động, nhất là mở rộng và phát huy dân chủ, do đó đã tạo ra những chuyển biến tích cực.

Đoàn Thanh niên có những hình thức hoạt động năng động, phù hợp với đặc điểm của tuổi trẻ, làm tốt công tác giáo dục phẩm chất, đạo đức và lý tưởng cộng sản; xây dựng và củng cố cơ sở đoàn vững mạnh, bồi dưỡng đoàn viên ưu tú giới thiệu cho Đảng, phát động phong trào “ba xung kích”, “hành quân theo bước chân những người anh hùng”… để qua đó tạo điều kiện cho thanh niên được rèn luyện, cống hiến và trưởng thành. Phong trào đoàn có những tiến bộ đáng ghi nhận. Tổ chức công đoàn đã có nhiều đổi mới về phương thức hoạt động, nhất là chuyển hướng công tác về cơ sở; tăng cường công tác chính trị, tư tưởng; đẩy mạnh các phong trào thi đua “phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật” và tham gia thực hiện quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Tổ chức công đoàn và phong trào công đoàn không ngừng được củng cố và vững mạnh.

Hội Liên hiệp Phụ nữ tiếp tục đẩy mạnh phong trào “người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, “xây dựng gia đình văn hóa mới”, “kế hoạch hóa gia đình và sinh đẻ có kế hoạch”.

Mặt trận Tổ quốc huyện có những đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động như vận động cá nhân thực hành tiết kiệm, xây dựng nếp sống mới, vận động phụ lão làm giàu và xây dựng chính quyền vững mạnh… Mặt trận Tổ quốc từ huyện đến cơ sở trở thành trung tâm đoàn kết các tầng lớp nhân dân để thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng.

Hội Nông dân được củng cố về tổ chức và đổi mới phương thức hoạt động, chú trọng vào việc thực hiện các phong trào phát triển kinh tế gia đình, làm giàu chính đáng; thực hiện nếp sống văn minh, tham gia vào công tác xây dựng kế hoạch sản xuất, phân phối sản phẩm, kiểm tra các ban quản trị hợp tác xã… đã góp phần đáng kể vào công cuộc đổi mới ở nông thôn.

II. TỪ SƠN TIẾN HÀNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA (1991-1999)

1. Đại hội Đảng bộ huyện Tiên Sơn lần thứ XII, nhiệm kỳ (1991-1995)

Bước sang năm 1991, tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động hết sức phức tạp. Trên thế giới cuộc khủng hoảng toàn diện trong hệ thống xã hội chủ nghĩa dẫn tới sự tan rã, sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu. So sánh lực lượng có chiều hướng bất lợi cho các lực lượng cách mạng thế giới. Các thế lực đế quốc và phản động quốc tế ráo riết thực hiện tiến công bằng “diễn biến hòa bình” hòng thủ tiêu hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam. Ở trong nước, sau 4 năm thực hiện đổi mới do Đại hội VI đề ra, tình hình kinh tế-xã hội đã có những chuyển biến đáng kể, song chúng ta vẫn còn phải đối mặt với những khó khăn, thử thách chồng chất và nhiều yếu kém cần phải giải quyết. Để kịp thời giải quyết những khó khăn, thử thách và tiếp tục lãnh đạo đất nước tiến lên trong sự nghiệp đổi mới, từ ngày 24 đến ngày 27-6-1991, Đảng ta đã tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000;

Nhằm vận dụng Nghị quyết đại hội lần thứ VII của Đảng vào điều kiện cụ thể địa phương, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Hà Bắc, từ ngày 2 đến hết ngày 3-4-1991, tại Hội trường núi Lim, Đảng bộ huyện Tiên Sơn tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ XII (vòng 1). Đồng chí Nguyễn Thạc Giáp thay mặt Tỉnh ủy về dự và chỉ đạo Đại hội. Đại hội đã thảo luận góp ý kiến bổ sung Dự thảo các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII; bầu 18 đại biểu chính thức, 01 đại biểu dự khuyết đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Bắc lần thứ XIII và phát động thi đua chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII.

Sau khi các cơ sở đại hội vòng II đạt kết quả tốt, trong 03 ngày từ 20 đến ngày 22-10-1991, Đảng bộ huyện Tiên Sơn tiến hành Đại hội lần thứ XII (vòng 2) tại Hội trường núi Lim. Đại hội tổng kết thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ XII, kết luận: “Qua 5 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng bộ và nhân dân Tiên Sơn đã nỗ lực phấn đấu, khắc phục nhiều khó khăn, thu được nhiều kết quả quan trọng. Tình hình chính trị ổn định, tình hình kinh tế có chuyển biến tích cực, sản lượng lương thực tăng cả về diện tích, năng suất và tổng sản lượng…, giá trị sản lượng tiểu thủ công nghiệp tăng lên. Nhiều công trình mới được xây dựng, nhất là công trình điện, giao thông nông thôn, thủy lợi, trường học, bệnh viện…, nguồn thu chi ngân sách bước đầu được đảm bảo. Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế được duy trì…, đời sống nhân dân trong huyện cơ bản được ổn định”.

Đại hội thông qua phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu trong 5 năm 1991-1995, xác định: bằng mọi nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ và nhân dân trong huyện để ổn định, phát triển và nâng cao hiệu quả nền sản xuất xã hội, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân; phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế trên địa bàn huyện; đẩy mạnh thực hiện ba chương trình kinh tế. Từng bước hình thành cơ cấu kinh tế nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ.

Kinh tế nông nghiệp: phát triển nông nghiệp toàn diện, trước hết tập trung thực hiện tốt chủ trương giao quyền sử dụng đất lâu dài và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nông dân. Thực hiện đa dạng hóa mô hình hợp tác xã, bộ máy quản lý hợp tác xã tinh gọn, phù hợp với đặc điểm của từng địa phương. Phấn đấu đến năm 1995 đạt từ 73.000-75.000 tấn lương thực, đưa mức bình quân lương thực trên đầu người lên 360kg/năm.

Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp: trọng tâm là điều chỉnh và sắp xếp lại đi đôi với cải tiến kỹ thuật; khôi phục và củng cố các ngành nghề, làng nghề truyền thống. Đầu tư và tiếp thu kỹ thuật, công nghệ mới, khuyến khích các thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư, lao động, kinh nghiệm làm ăn để phát triển ngành nghề. Mở rộng các hình thức hoạt động, liên kết, liên doanh của các tổ chức kinh tế, các thành phần kinh tế. Phấn đấu đến năm 1995, giá trị sản lượng thủ công nghiệp địa phương đạt 12,5 tỷ đồng (xuất khẩu đạt 2,5 tỷ đồng).

Văn hóa-xã hội: đẩy mạnh công tác bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa quê hương, phong trào xây dựng gia đình văn hóa mới. Đảm bảo sự phát triển ổn định, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục đào tạo. Thực hiện phổ cập cấp I và xóa mù chữ; xây dựng cơ sở vật chất cho các nhà trường. Củng cố và nâng cao chất lượng của mạng lưới y tế. Thực hiện tốt công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình, hạ tỷ lệ gia tăng dân số từ 2% năm 1990 xuống 1,7% năm 1995.

Quốc phòng-an ninh: tăng cường công tác quân sự địa phương theo quan điểm xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân. Xây dựng phương án phòng thủ từ cơ sở đến huyện. Nâng cao chất lượng hoạt động của lực lượng dân quân tự vệ. Đảm bảo giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, nhất là ở các địa bàn, các cụm dân cư trọng điểm. Đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, hoạt động thường xuyên, thiết thực và có chiều sâu.

Củng cố kiện toàn hệ thống chính trị, xây dựng Đảng bộ, chính quyền, đoàn thể vững mạnh. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước và vai trò của các đoàn thể nhân dân. Đổi mới và tăng cường công tác xây dựng đảng, đổi mới về nội dung và hình thức giáo dục chính trị, tư tưởng, củng cố tổ chức cơ sở đảng, làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, chăm lo xây dựng chi bộ vững mạnh. Xây dựng chính quyền cơ sở vững mạnh. Đổi mới phong cách làm việc của cơ quan chính quyền từ huyện đến cơ sở. Đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động của các đoàn thể quần chúng.

Đại hội bầu Ban chấp hành khóa XII gồm 33 ủy viên do đồng chí Nguyễn Sỹ làm Bí thư, đồng chí Đỗ Quang Quyển và đồng chí Nguyễn Công Ngọ làm Phó Bí thư.

Phát triển kinh tế. Trong sản xuất nông nghiệp, từ năm 1991, Huyện ủy và Ủy ban nhân dân huyện đã chỉ đạo sát sao phòng Nông nghiệp, các ngành chức năng, cùng chính quyền các xã, thôn và ban quản lý các hợp tác xã nông nghiệp tiến hành việc giao ruộng đất lâu dài và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất cho nông dân (đến cuối năm 1993 đã cơ bản hoàn thành). Cùng với đó, Huyện ủy tập trung chỉ đạo chuyển hướng quản lý và điều hành của hợp tác xã nông nghiệp theo phương châm giữ vững quy mô hợp tác xã, từng bước cải tiến quản lý phù hợp với điều kiện sản xuất, trong đó hộ là đơn vị kinh tế tự chủ. Nhờ những đổi mới về cơ chế quản lý nên sản xuất nông nghiệp phát triển. Năm 1992, đạt 66.749 tấn (tăng 9% so với năm 1991).

Năm 1994, Huyện ủy tập trung chỉ đạo cơ sở thực hiện việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, tăng cường ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật về giống cây trồng có năng suất và giá trị hàng hóa cao như giống lúa Trung Quốc, lúa thơm, giống đậu tương DDT84, DDT90, AK05. Do vậy, đã tạo nên sự chuyển biến về chất lượng trong sản xuất nông nghiệp của huyện. Trong 5 năm (1991-1995), sản lượng lương thực bình quân đạt 65.865 tấn/năm, tăng 7,2%/năm và tăng 7,7% so với sản lượng bình quân 5 năm trước (1986-1990). Do sản lượng lương thực tăng đã tạo cho người nông dân có đủ lương thực ăn và dự trữ để phát triển chăn nuôi, nên đàn trâu, bò và các loại gia súc, gia cầm khác liên tục tăng hàng năm. Từ 1991-1995, đàn trâu bò tăng 1,8%/năm, đàn lơn tăng 8,6%/năm.

Công tác thủy lợi, giao thông, bưu điện và xây dựng cơ bản, hằng năm hệ thống đê, kè, cống và hệ thống kênh mương đều được sửa chữa tu bổ, nâng cấp. Từ năm 1991, huyện đã khảo sát, lập kế hoạch, hoàn chỉnh luận chứng kinh tế, kỹ thuật để sửa kè Tri Phương, tu bổ trạm bơm Phú Lâm 2, Phù Khê, Cống Thôn, Tân Chi và nhiều công trình khác. Nhìn chung, hằng năm huyện đều hoàn thành kế hoạch thủy lợi, tu bổ đê điều và kênh mương. Chiến dịch làm thủy lợi cải tạo đất hằng năm cũng được tiến hành thường xuyên.

Thời kỳ này, giao thông vận tải liên tục phát triển. Ngoài việc duy tu, bảo dưỡng hệ thống đường, huyện rất chú trọng việc nâng cấp, nhất là các đường liên xã, liên thôn. Với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” phong trào các làng, xã làm đường bê tông, đường gạch diễn ra sôi nổi. Năm 1995, được sự hỗ trợ, đầu tư của tỉnh, huyện đã hoàn thành và đưa vào sử dụng đường Nguyễn Văn Cừ, khởi công xây dựng đường Ngô Gia Tự, đường vào chợ Từ Sơn và hoàn thành dự án tuyến đường 195, 270. Các lực lượng chức năng đã tiến hành xử lý trên 800 trường hợp vi phạm hành lang giao thông, hành lang đê điều và vi phạm Luật Đất đai theo Nghị định 36/CP.

Cùng với việc nâng cấp hệ thống đường sá, các phương tiện giao thông vận tải phát triển cả về số lượng và chất lượng. Ngành bưu điện có những bước tiến rất cơ bản. Mạng lưới thông tin ngày càng được hoàn chỉnh và hiện đại hóa. Năm 1995, đạt bình quân 5,6 máy điện thoại trên 1.000 dân (tăng 14 lần so với 1990); 26/27 xã có điện thoại về đến trung tâm.

Trong 5 năm (1991-1995), Huyện tập trung đầu tư xây dựng các công trình phục vụ cho các chương trình kinh tế-xã hội trọng điểm như các công trình điện, thủy lợi, đường sá, trường học, bệnh viện… Năm 1991, huyện đã xây dựng xong phòng thí nghiệm Trường phổ thông Trung học Từ Sơn, hiệu sách báo Từ Sơn. Việc đầu tư cho xây dựng cơ bản không ngừng tăng lên với mức độ cao. Năm 1993 100% thôn, xóm trong huyện đã có điện phục vụ sản xuất và đời sống. Năm 1995, mức tiêu thụ điện bình quân toàn huyện đạt 135KW/h/người; 25/27 xã có trường học cao tầng.

Trong công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, từ năm 1991, Huyện ủy đã đề ra chủ trương chấn chỉnh và sắp xếp lại đi đôi với cải tiến kỹ thuật, phát triển công nghiệp nhỏ, tiểu thủ công nghiệp ở khu vực xí nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp và khu vực gia đình, kinh tế cá thể ở nông thôn và thị trấn, khôi phục và củng cố ngành nghề, làng nghề truyền thống như sơn mài, điêu khắc, dệt, rèn, nề, mộc, sản xuất vật liệu xây dựng và mở một số ngành nghề mới, trong phát triển công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm. Để thực hiện chủ trương trên, Huyện ủy đã đề ra hàng loạt các giải pháp như tập trung đầu tư, tiếp thu kỹ thuật, công nghệ; đổi mới tổ chức sản xuất để thích ứng với cơ chế thị trường. Bên cạnh các ngành nghề, làng nghề thủ công truyền thống phát triển như sắt, thép (Đa Hội, Châu Khê), dệt Tương Giang, huyện còn chủ trương phát triển thêm nhiều làng nghề mới như mộc, chạm khắc gỗ ở Phù Khê, Hương Mạc, Đồng Quang, Tam Sơn…, nghề xây dựng ở Tương Giang, Đồng Nguyên…

Công tác phân phối, lưu thông, dịch vụ có nhiều chuyển biến quan trọng. Thương nghiệp quốc doanh được sắp xếp lại và cùng với các thành phần kinh tế khác tạo nên thị trường hàng hóa phong phú. Năm 1995, tổng mức bán lẻ trên địa bàn huyện đạt 125 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 24,8% cơ cấu kinh tế của huyện, bằng 15% tổng mức bán lẻ toàn tỉnh, đạt tốc độ tăng tổng bình quân hằng năm là 18,5%. Các trung tâm thương mại lớn như chợ Từ Sơn được đầu tư nâng cấp, đáp ứng nhu cầu mua, bán của nhân dân.

Trong 5 năm (1991-1995), xuất khẩu bình quân hằng năm đạt 14,25 tỷ đồng. Năm 1995, các doanh nghiệp tư nhân trên địa bàn huyện xuất khẩu đạt 25,5 tỷ đồng. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu như đồ gỗ cao cấp, tơ tằm, nông sản, dược liệu…

Công tác tài chính có nhiều tiến bộ. Từ năm 1991, Huyện ủy đã có chủ trương về đầu tư sản xuất, mở rộng thị trường, mở rộng các hình thức tín dụng, thu hút đầu tư, huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển; đồng thời tích cực giám sát các thành phần kinh tế thực hiện Luật thuế và Pháp lệnh kế toán thông kê. Vì vậy, nguồn thu ngân sách hằng năm đều tăng, trong 05 năm (1991-1995) mức thu bình quân hằng năm đạt 9 tỷ 579 triệu đồng (tăng bình quân 21%/năm). Thành tựu này vừa giúp huyện cân đối ngân sách, vừa đóng góp nghĩa vụ thu nộp ngân sách với tỉnh, vừa tạo điều kiện đầu tư cho các ngành kinh tế-xã hội trên địa bàn huyện phát triển. Hệ thống ngân hàng, nhất là Ngân hàng phát triển nông nghiệp; các quỹ tín dụng đã có nhiều cố gắng đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn cho nền kinh tế hàng hóa, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế vay vốn để phát triển sản xuất kinh doanh. Năm 1995, Ngân hàng phát triển nông nghiệp đã giúp các hộ nghèo vay 700 triệu đồng với lãi suất ưu đãi, quỹ tín dụng ở 05 xã (Tương Giang, Đình Bảng, Đồng Quang, Châu Khê, Nội Duệ) đã huy động 3,32 tỷ đồng cho 1.010 lượt hộ nông dân vay để phát triển sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là để thực hiện chương trình “xóa đói giảm nghèo”.

Sự nghiệp giáo dục-đào tạo. Năm học 1990-1991, Huyện đã đầu tư trên 02 tỷ đồng để tu sửa, xây mới 22 trường học ở 20 xã, nên đã chấm dứt tình trạng học ba ca. Tháng 2-1992, huyện Tiên Sơn được công nhận đạt chuẩn quốc gia về phổ cập tiểu học và xóa mù chữ. Với truyền thống hiếu học của quê hương, trong các kỳ thi học sinh giỏi toàn tỉnh, toàn quốc và quốc tế, học sinh Tiên Sơn tham gia với số lượng lớn và đạt được những thành tích đáng khích lệ. Trong 5 năm (1991-1995) có 92 giải cá nhân và 30 tập thể đạt giải cấp tỉnh, 02 giải cá nhân toàn quốc, đặc biệt có 03 học sinh được cử vào đội tuyển quốc gia đi thi toán, vật lý và cờ vua quốc tế.

Huyện ủy và chính quyền huyện rất quan tâm đến sự nghiệp đào tạo của các trường chuyên nghiệp đóng trên địa bàn như Trường trung học thủy sản 4, Trường công nhân xây dựng (Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn), Trường đại học Thể dục thể thao, góp phần đưa các trường trên luôn đạt thành tích cao trong công tác đào tạo.

Sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của nhân dân được Huyện ủy chỉ đạo ngành y tế tập trung vào công tác phòng, chữa bệnh và kế hoạch hóa gia đình. Huyện đã đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị hiện đại cho bệnh viện huyện, củng cố và xây dựng các trạm y tế xã. Năm 1992-1993, ngành y tế chú trọng công tác tiêm phòng 06 bệnh cho trẻ em và công tác truyền thông dân số. Năm 1995, mạng lưới y tế được sắp xếp lại, tập trung vào việc kiện toàn mạng lưới y tế cơ sở. Các chương trình y tế quốc gia được triển khai như chương trình tiêm chủng 06 loại bệnh, chương trình chống suy dinh dưỡng, chương trình chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, chương trình dân số-kế hoạch hóa gia đình.

Công tác xây dựng đảng. Công tác xây dựng đảng được Đảng bộ xác định là nhiệm vụ thường xuyên và then chốt trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Huyện ủy đã tập trung chỉ đạo quán triệt đi đôi với hướng dẫn tổ chức thực hiện nghị quyết; xây dựng chương trình hành động làm cho nghị quyết của Đảng sớm đi vào cuộc sống.

Trong công tác củng cố cơ sở Đảng và nâng cao chất lượng đảng viên, Huyện ủy từng bước kiện toàn được các tổ chức yếu kém, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, nhận thức, ý thức tổ chức kỷ luật của đảng viên, đồng thời xử lý nghiêm đối với những đảng viên vi phạm kỷ luật. Trong 5 năm (1991-1995) có 101 đảng viên học xong chương trình lý luận sơ cấp và 491 quần chúng ưu tú được học lớp đối tượng Đảng, kết nạp được 257 đảng viên mới. Năm 1995, kết nạp 102 đảng viên mới, các đảng bộ Đình Bảng, Đồng Nguyên, Tân Hồng kết nạp được từ 4-6 đảng viên.

Công tác kiểm tra tập trung vào việc chấp hành Điều lệ Đảng và quy chế hoạt động. Trong 05 năm (1991-1995), Ủy ban kiểm tra các cấp đã tiến hành xử lý kỷ luật 550 đảng viên. Khai trừ và đưa ra khỏi Đảng 679 trường hợp. Công tác kiểm tra đã góp phần quan trọng vào củng cố và nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng, làm trong sạch nội bộ Đảng.

Công tác củng cố chính quyền. Hoạt động của hội đồng nhân dân các cấp đã có những bước đổi mới và thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ theo luật định. Các kỳ họp Hội đồng nhân dân huyện và xã đã cụ thể, thiết thực hơn. Công tác giám sát, kiểm tra các hoạt động của bộ máy nhà nước được chú trọng.

Ủy ban nhân dân các cấp từng bước được kiện toàn sắp xếp theo Nghị định 09/CP của Chính Phủ. Quản lý nhà nước trên nhiều lĩnh vực có tiến bộ. Đã chú trọng kết hợp giữa phát triển kinh tế với văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Các cơ quan chuyên môn của ủy ban nhân dân các cấp được tổ chức, sắp xếp lại. Trình độc chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ viên chức nhà nước được nâng lên. Quy chế dân chủ được triển khai, thực hiện tốt ở cơ sở. Chức danh trưởng thôn được kiện toàn.

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đã thực hiện tốt nhiều cuộc vận động như “toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”, “toàn dân tham gia phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội”, “thanh niên lập nghiệp”, “tuổi trẻ giữ nước”, “phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, nuôi dạy con tốt, xây dựng gia đình hạnh phúc”, “phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, cần kiệm xây dựng đất nước”, “nông dân tham gia sản xuất kinh doanh giỏi”, công nhân viên chức “thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo, xây dựng đơn vị xanh-sạch-đẹp”, “giữ vững và phát huy bản chất anh bộ đội cụ Hồ”… Những phong trào đó đã thu hút đông đảo đoàn viên, hội viên tham gia, góp phần vào thành tích chung của huyện.

2. Đại hội Đảng bộ huyện Tiên Sơn lần thứ XIII, nhiệm kỳ (1996-1998)

Quán triệt Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng ta, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, từ ngày 29 đến ngày 30-3-1996, Đảng bộ huyện Tiên Sơn tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ XIII tại Hội trường núi Lim. Về dự Đại hội có 219 đại biểu đại diện cho gần 7.000 đảng viên của toàn Đảng bộ. Báo cáo tổng kết khóa XII nhiệm kỳ (1991-1995) khẳng định “kinh tế của huyện căn bản ổn định, từng bước phát triển”, kinh tế nhiều thành phần được xác lập và phát triển đúng hướng, “sự nghiệp giáo dục, đào tạo được giữ vững và có nhiều tiến bộ; công tác an ninh quốc phòng hoàn thành tốt các nhiệm vụ đề ra”. Vai trò lãnh đạo của Đảng tiếp tục được khẳng định và phát huy.

Đại hội đã thông qua phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu nhiệm kỳ 1996-2000, xác định “phát huy những thành quả đạt được, khắc phục những yếu kém, tồn tại, giữ vững ổn định chính trị; không ngừng củng cố và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, tiếp tục đổi mới toàn diện. Phát huy lợi thế, khai thác tốt tiềm năng lao động, đất đai, vị trí, con người Tiên Sơn, mở rộng thu hút đầu tư trong và ngoài nước. Khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế; đa dạng hóa các mô hình quản lý và quy mô sản xuất để thực hiện một bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và dân trí của nhân dân, xây dựng huyện ngày càng giàu đẹp, văn minh.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ XIII gồm 35 ủy viên, trong đó có 82,9% tái cử, 11,4% là nữ. Đại hội đã bầu 15 đại biểu chính thức và 02 đại biểu dự khuyết đi dự Đại hội đại biểu Đảng bộ Hà Bắc lần thứ IX.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XIII gồm 31 đồng chí. Tại kỳ họp thứ nhất ngày 11-4-1996, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện bầu Ban Thường vụ Huyện ủy gồm 11 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Sỹ được bầu làm Bí thư Huyện ủy, các đồng chí Nguyễn Công Ngọ, Đỗ Quang Quyển làm Phó Bí thư.

Ngày 12-11-1996, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XI ra Nghị quyết về việc chia tách một số tỉnh, trong đó tỉnh Hà Bắc được tách thành hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang, tỉnh Bắc Ninh chính thức hoạt động theo đơn vị hành chính mới từ ngày 01-01-1997.

Trong bối cảnh tỉnh mới được tái lập, nhiều đồng chí được điều động về công tác ở tỉnh, công tác tổ chức cán bộ của huyện Tiên Sơn có sự thay đổi. Ngày 1-1-1997, đồng chí Nguyễn Công Ngọ được bầu làm Bí thư Huyện ủy thay đồng chí Nguyễn Sỹ chuyển công tác[2]; đồng chí Nguyễn Đức Tuất và đồng chí Nguyễn Xuân Am được bầu làm Phó Bí thư. Tiếp đó, tháng 3-1997, đồng chí Nguyễn Xuân Am được Hội đồng nhân dân huyện bầu giữ chức chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện thay đồng chí Đỗ Quang Quyển chuyển công tác; đồng chí Nguyễn Hữu Thành được bầu làm phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện. Từ tháng 10-1998 đến tháng 8-1999 đồng chí Nguyễn Công Ngọ đi học, đồng chí Nguyễn Đức Tuất được cử giữ chức Quyền Bí thư Huyện ủy.

Quán triệt Nghị quyết đại hội lần thứ XIII của Đảng bộ huyện Tiên Sơn, trong 3 năm 1996-1998, công cuộc đổi mới ở Từ Sơn tiếp tục được đẩy mạnh, đi vào chiều sâu, kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển; đời sống vật chất và tình thần của nhân dân không ngừng được cải thiện, nâng cao; an ninh chính trị, trật tự xã hội ổn định, được giữ vững.

Phát triển kinh tế. Trong sản xuất nông nghiệp, việc chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật đến hộ nông dân được quan tâm hơn, các loại giống lúa mới, lúa lai có năng suất và giá trị kinh tế cao được đưa vào sản xuất. Việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng gắn với cơ cấu mùa vụ một cách hợp lý nên đã đưa năng suất lúa và sản lượng lương thực tăng nhanh. Năm 1996 tổng sản lượng đạt 30.365 tấn; năm 1998, đạt 86.784 tấn.

Công tác thuỷ lợi. Hàng năm huyện đều hoàn thành kế hoạch đào đắp, tu bổ đê, kè trước thời hạn. Chất lượng công trình nhìn chung bảo bảm. Do thực hiện tốt công tác phòng chống bão lụt, chống úng nên không để xảy ra ngập úng trong mùa mưa bão. Do có hệ thống kê mương tương đối hoàn chỉnh, diện tích tưới tiêu theo ngày càng tăng và chủ động đã góp phần làm tăng sản lượng lương thực và thực phẩm. Chương trình kiên cố hoá kênh mương được quan tâm. Giá trị đầu tư cho kiên cố hoá kênh mương ở các xã Đồng Nguyên, Tân Hồng, Đình Bảng khá lớn.

Chăn nuôi tiếp tục phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Trong cơ cấu đàn gia súc, gia cầm, đàn lợn và gia cầm phát triển nhanh. Đàn trâu cày kéo giảm do tốc độ cơ giới hoá nhanh; đàn bò lai sin phát triển mạnh theo hướng chăn nuôi lấy thịt. Từ năm 1997, chương trình Sind hóa đàn bò đã đem lại hiệu quả kinh tế cao, được nông dân chấp nhận, tuy nhiên việc giải quyết thị trường tiêu thụ còn hạn chế. Một bộ phận dân cư đã tích cực áp dụng khoa học kỹ thuật tổ chức chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá; nuôi thả cá vẫn được các cơ sở quan tâm. Đặc biệt hợp tác xã Đình Bảng đã thành công trong mô hình nuôi cá đồng trũng (1 vụ lúa, 1 vụ nuôi cá) có hiệu quả kinh tế cao. Giá trị sản xuất nông nghiệp qua các năm đều tăng, năm 1996 đạt 88,9 tỷ đồng, năm 1997: 101,7 tỷ đồng, năm 1998 là 103,3 tỷ đồng.

Phong trào trồng cây vẫn phát triển mạnh, đặc biệt là trồng cây ăn quả có giá trị kinh tế cao, nhiều cơ sở đã tận dụng đất bờ mương, đường giao thông trồng cây ăn quả, cây lấy gỗ, bóng mát và cải thiện môi trường.

Thực hiện Nghị quyết 05-NQ/TU của Tỉnh uỷ Bắc Ninh về chuyển đổi hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã, đến năm 1998 đã có 30 hợp tác xã được chuyển đổi. Nhiều hợp tác xã hoạt động có hiệu quả trong các khâu như dịch vụ làm đất, giống, tưới tiêu nước, bảo vệ thực vật, điện, khuyến nông và chuyển giao khoa học kỹ thuật tới hộ xã viên. Đội ngũ cán bộ quản lý hợp tác xã được chú ý bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ nên cơ bản đã hoàn thành được nhiệm vụ dịch vụ sản xuất ở cơ sở.

Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Các làng nghề truyền thống phát triển mạnh mẽ, đến năm 1998 toàn huyện có 126 doanh nghiệp, gồm 42 công ty trách nhiệm hữu hạn, 84 hợp tác xã và hàng nghìn hộ sản xuất kinh doanh mặt hàng tiểu thủ công nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Thời kỳ này, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của Từ Sơn phát triển khá nhanh và mạnh, tập trung chủ yếu ở loại hình kinh tế hợp tác xã và hộ gia đình.

Huyện tập trung chỉ đạo các ngành quản lý triển khai thực hiện chuyển đổi các đơn vị sản xuất kinh doanh đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp, Luật hợp tác xã và  thực hiện Nghị quyết 04-NQ/TU của Tỉnh uỷ về phát triển làng nghề tiểu thủ công nghiệp. Ba năm 1996-1998, tiểu thủ công nghiệp phát triển mạnh mẽ về chuyển đổi cơ cấu mặt hàng, đa dạng hoá sản phẩm mở rộng sản xuất, thu hút được nhiều lao động tham gia.

Từ năm 1996, nhiều doanh nghiệp đã mạnh dạn đổi mới, đầu tư trang thiết bị, công nghệ mới, tạo ra sản phẩm có chất lượng, phù hợp với nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước, góp phần quan trọng trong việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở địa phương. Đến năm 1997, trên địa bàn toàn huyện có 77 doanh nghiệp hoạt động, gồm 10 công ty trách nhiệm hữu hạn, 65 xí nghiệp cổ phần và tổ hợp tác, 02 xí nghiệp tư nhân, thu hút chục hàng nghìn lao động.

Do công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển đã thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra nhanh, bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới. Do có chính sách khuyến khích và đầu tư của huyện một cách hợp lý, kịp thời nên tổng sản lượng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp luôn luôn tăng với tỷ lệ cao. Giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp các năm đều tăng mạnh. Năm 1996 đạt 104 tỷ đồng, đến năm 1998 tăng lên 300 tỷ đồng. Giá trị xuất khẩu hàng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ngày càng tăng. Năm 1997, giá trị xuất khẩu đạt 97 tỷ 554 triệu đồng. Năm 1998 giá trị đạt 98 tỷ đồng so với kế hoạch năm vượt 18%.

Năm 1996, Ngân hàng phục vụ người nghèo đạt kết quả khá, tổng số 4.151 lượt hộ được vay với số tiền là 3 tỷ 338 triệu đồng, tạo điều kiện cho các hộ nghèo có vốn để làm ăn và tiếp cận với kinh tế thị trường, hạn chế nạn cho vay nặng lãi ở nông thôn.

Hoạt động thương mại dịch vụ trong 3 năm (1996-1998) đa dạng và sôi động. Doanh số mua vào bán ra của ngành thương mại qua các năm đều tăng. Kim ngạch xuất khẩu đạt 172,5 tỷ, tăng bình quân là 15,5%/năm.

Hệ thống chợ, các điểm dịch vụ buôn bán được mở rộng và sắp xếp hợp lý. Chợ Từ Sơn được quy hoạch cải tạo và nâng cấp trở thành trung tâm thương mại của huyện nhằm đáp ứng nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hoá cho nhân dân trong huyện.

Công tác tài chính, tín dụng, ngân hàng thực hiện theo Luật Ngân sách, Luật Thuế giá trị gia tăng, các luật thuế mới đã triển khai đầy đủ; khai thác tích cực các nguồn thu trên địa bàn, nhất là thu thuế ngoài quốc doanh. Công tác điều hành thu chi ngân sách được công khai hoá. Thực hiện khoán thu, khoán chi, các xã thu vượt kế hoạch huyện giao được điều tiết trả lại cho xã đầu tư xây dựng các công trình phúc lợi. Tình hình tài chính được cải thiện do tăng nguồn thu, tiết kiệm chi, nhất là chi hội họp nên đã tập trung được vốn cho đầu tư phát triển.

Năm 1996 thu ngân sách đạt 7,3 tỷ đồng. Năm 1998 ước thu 9,2 tỷ đồng. Tốc độ tăng thu bình quân hàng năm đạt 8,1%. Chi ngân sách hàng năm bảo đảm tiết kiệm, hợp lý; cơ bản đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn. Kho bạc nhà nước đã làm tốt nhiệm vụ quản lý thu chi ngân sách và tín dụng nhà nước, đáp ứng được các nhu cầu về vốn cho sản xuất và chi tiêu thường xuyên và đột xuất trong toàn huyện. Hoạt động của các tổ chức tín dụng, ngân hàng trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước tiếp tục được mở rộng. Huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư hàng năm đều tăng. Hoạt động tín dụng mở rộng làm tăng vốn đầu tư cho các thành phần kinh tế, nhất là các làng nghề, góp phần tích cực cho sự phát triển kinh tế, xã hội của huyện.

Công tác giao thông vận tải. Thực hiện nghị quyết số 01-NQ/TU của Tỉnh uỷ Bắc Ninh về phát triển giao thông nông thôn, trong 3 năm (1996-1998), toàn huyện đã đầu tư được 9,4 tỷ đồng cho làm mới và nâng cấp nhiều tuyến đường. Hầu hết các tuyến chính trong huyện đã được rải nhựa như đường 277 từ Hương Mạc đi Phù Khê, đoạn từ quốc lộ 1A đi cầu Chạt, Phù Chẩn, đường 295B rải nhựa từ quốc lộ 1A sang Hoàn Sơn, đoạn chùa Dận vào Đa Hội. Rải bê tông 3 tuyến trục ngang, cải tạo nâng cấp vỉa hè phường Đông Ngàn. Đường làng ngõ xóm cũng được xây gạch hoặc đổ bê tông... góp phần làm thay đổi bộ mặt huyện lỵ và nông thôn của huyện theo hướng đô thị hoá tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế-xã hội của huyện. Từ năm 1997, thực hiện chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa, công tác phát triển giao thông được huyện rất coi trọng. Năm 1998, huyện đã đầu tư 2 tỷ đồng để hoàn thành hàng loạt các công trình giao thông như đường nhựa từ Chi cục Thuế đến chợ Từ Sơn; đường từ chợ Từ Sơn đến tỉnh lộ 295B, rải cấp phối hơn 7km đê Ngũ Huyện Khê, hoàn thành đường Nguyễn Quán Quan. Ngoài ra, ở hầu hết các xã, thôn đều làm đường bê tông, đường lát gạch… tạo nên sự đổi mới của bộ mặt nông thôn trên toàn huyện. Đến năm 1996, toàn huyện có 293 ôtô, 271 xe lam và hàng trăm xe công nông, máy kéo nhỏ, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đi lại và vận chuyển của nhân dân.

Công tác thông tin liên lạc luôn bảo đảm thông suốt kịp thời, phục vụ tốt cho sản xuất và đời sống. Từ năm 1996, ngành bưu điện có sự phát triển tăng tốc phục vụ kịp thời sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Năm 1998, số máy thuê bao có 5.727 chiếc, trong đó có 227 máy di động, đạt bình quân 4,7 máy/100 dân, tăng 2,2 máy so với 1996. Bưu điện huyện được xây dựng nâng cấp, phát triển đa dạng các loại hình phục vụ. Đã có 9/10 xã xây dựng bưu điện, văn hoá xã, đáp ứng nhu cầu thông tin liên lạc của nhân dân, phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.

Công tác xây dựng cơ sở vật chất. Cấp uỷ các cấp đã quan tâm xây dựng các công trình công cộng, toàn huyện xây mới thêm được 30% số phòng học kiên cố cho các cấp học. Nâng cấp một số trạm xá, nghĩa trang liệt sỹ, trụ sở làm việc của các xã được xây dựng mới và cải tạo khang trang hơn. Mạng lưới điện, vỉa hè ở Từ Sơn được cải tạo nâng cấp; dự án nước sạch, vệ sinh môi trường... cũng được đầu tư xây dựng.

Sự nghiệp giáo dục-đào tạo khá toàn diện, đi vào ổn định và phát triển. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 về giáo dục, đào tạo, Huyện ủy và các cấp, các ngành, các địa phương tập trung chỉ đạo công tác giáo dục và đào tạo, nhất là thực hiện chủ trương “Đa dạng hóa giáo dục-đào tạo” đạt kết quả tốt. Năm học 1997-1998, số cháu mẫu giáo đến lớp đạt 51% (mẫu giáo 5 tuổi đạt 97%). Chất lượng giáo dục nâng lên đáng kể.

Công tác y tế chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được quan tâm. Đến năm 1996, 99% số trẻ em trong độ tuổi được tiêm chủng các loại vắcxin phòng bệnh. Công tác truyền thông dân số và các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình được triển khai sâu rộng với nhiều hình thức phong phú đã đem lại kết quả khá, góp phần giảm tỷ lệ dân số của huyện. Năm 1997, Huyện ủy tập trung chỉ đạo ngành y tế một cách toàn diện từ huyện đến cơ sở. Các chương trình phòng chống bệnh lao, tiêm chủng mở rộng, phòng chống HIV-AIDS, chương trình phòng chống bệnh bướu cổ được triển khai tốt. Công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình tiếp tục được đẩy mạnh, tỷ lệ sinh con thứ ba giảm 8,16% so với năm 1996. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 1997 là 1,34%.

Văn hóa-xã hội phát triển khá toàn diện. Phong trào xây dựng phát triển làng văn hoá, khu dân cư văn hoá, gia đình văn hoá được kết hợp chặt chẽ với phòng trào toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới trên ở khu dân cư. Các hoạt động văn hoá như thông tin tuyên truyền, văn nghệ quần chúng, tôn tạo và bảo tồn di tích lịch sử-văn hoá, tổ chức lễ hội... luôn được huyện và ngành quan tâm chỉ đạo nên các giá trị văn hoá và bản sắc văn hoá vùng quê Kinh bắc được giữ gìn phát huy.

Công tác quản lý các hoạt động văn hoá, dịch vụ văn hoá-thể dục thể thao được chú trọng, phát triển lành mạnh. Phong trào thể dục thể thao như bóng đá, bóng chuyền, cầu lông... phát triển ở nhiều cơ sở, nhất là trong các trường học, cơ quan. Các giải thể thao của tỉnh đều có vận động viên tham gia và đạt thành tích khá.

Chính sách xã hội. Do kinh tế phát triển nên đời sống nhân dân từng bước được ổn định, chương trình xoá đói giảm nghèo được các ngành chuyên môn, các đoàn thể, nhất là hội phụ nữ, hội nông dân triển khai tích cực có hiệu quả. Số hộ giàu tăng, nhu cầu ăn, mặc, ở và phương tiện sinh hoạt đi lại tăng nhanh, hộ nghèo còn 2.1%. Chương trình xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, đã cho vay ưu đãi hộ nghèo với số dư trên 9 tỷ đồng, hỗ trợ thêm vốn để các hộ nghèo vươn lên. Ba năm (1996-1998) toàn huyện đã xây dựng và sửa chữa 35 ngôi nhà tình nghĩa, 11/11 xã đã hoàn thành tặng sổ tiết kiệm tình nghĩa tới các đối tượng bố mẹ, vợ liệt sỹ, thương binh nặng. Toàn huyện tặng 1.972 sổ tiết kiệm tình nghĩa với tổng giá trị 400 triệu đồng. Năm bà mẹ Việt Nam anh hùng còn sống được Mặt trận và các cơ quan nhận phụng dưỡng, thăm hỏi trợ cấp thường xuyên chu đáo, 27 mẹ Việt Nam anh hùng đã mất được xây mộ gắn bia.

Công tác an ninh, quốc phòng. Thường xuyên quán triệt và thực hiện nghiệm các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên về công tác quốc phòng an ninh, tăng cường bảo vệ chính trị nội bộ và xây dựng các cơ quan thuộc khối nội chính vững mạnh. Nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân được cấp uỷ Đảng chính quyền các cấp coi trọng. Huyện uỷ đã có nghị quyết về lãnh đạo xây dựng lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viên trong tình hình mới. Công tác quân sự địa phương được giữ vững và có nhiều chuyển biến tích cực; chất lượng hoạt động và huấn luyện dân quân tự vệ được nâng lên. các nhiệm vụ tuyển quân, động viên huấn luyện quân dự bị, diễn tập quân sự đều hoàn thành chỉ tiêu được giao. Các kế hoạch phòng thủ, kế hoạch sẵn sàng chiến đấu được xây dựng và từng bước hoàn thiện. Công tác hậu phương quân đội được quan tâm thực hiện tốt.

Công tác xây dựng Đảng. Công tác tư tưởng đã hoàn thành tốt nhiệm vụ trọng tâm là tuyên truyền phổ biến kịp thời, đầy đủ những chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước tới cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Nghị quyết đại hội VIII của Đảng, các nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương, như nghị quyết Trung ương 5, 6 (lần 2) và cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng được triển khai kịp thời, sớm đưa vào cuộc sống. Xây dựng chương trình hành động, thể hiện nói đi đôi với làm, biến nghị quyết thành hiện thực. Các chi bộ trong toàn huyện đều có báo nhân dân, báo Bắc Ninh, tạp chí cộng sản, bản tin của Ban tuyên giáo tỉnh phát hành. Đội ngũ báo cáo viên và giải viên kiêm chức được kiện toàn, gồm 18 đồng chí ở cấp huyện và 22 đ/c trực tiếp ở các chi, Đảng bộ trực thuộc, 94 đồng chí ở các chi, Đảng bộ xã, thị trấn.

Công tác giáo dục lý luận chính trị được Huyện uỷ và Đảng bộ cơ sở quan tâm. Trong 3 năm (1996-1998), đã tổ chức được 18 lớp đối tượng kết nạp Đảng, 11 lớp lý luận chính trị phổ thông, 9 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Đảng cho cấp uỷ cơ sở là Bí thư chi bộ. Kết quả hàng nghìn cán bộ đảng viên đã được bồi dưỡng tập huấn về nghiệp vụ, về lý luận chính trị. Ngoài ra nhiều cán bộ, đảng viên trong quy hoạch được giử đi học tập, đào tạo bồi dưỡng tại Trường chính trị Nguyễn Văn Cừ. Từ năm 1996, huyện đã mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về tư tưởng văn hoá cho cán bộ làm công tác tuyên giáo, báo cáo viên, trưởng ban văn hoá và Đài truyền thanh cơ sở được thực hiện; việc tổ chức thi báo cáo viên cơ sở đạt kết quả tốt. Nhìn chung, công tác tư tưởng đã đảm bảo thống nhất cao về nhận thức. Từ đó thống nhất về hành động và củng cố niềm tin cho cán bộ Đảng viên và quần chúng nhân dân vào sự nghiệp đổi mới của đất nước, quê hương.

Công tác tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên. Các cấp uỷ Đảng đã thường xuyên quan tâm củng cố tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đảng viên, bảo đảm cho tổ chức cơ sở đảng xứng đáng là hạt nhân lãnh đạo ở cơ sở. Đảng bộ huyện đã tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả nghị quyết 04-NQ/TU về xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh, củng cố tổ chức cơ sở đảng yếu kém, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Công tác phát triển đảng viên mới được quan tâm hơn; 5 năm qua kết nạp được 435 đảng viên.

Công tác cán bộ có nhiều đổi mới, việc sắp xếp đề bạt, bố trí, sử dụng cán bộ được thực hiện theo quy chế. chất lượng cán bộ từng bước được nâng lên. Đa số cán bộ được sắp xếp, bổ nhiệm đều phát huy được năng lực và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đội ngũ cán bộ ở cơ sở được quan tâm về chế độ chính sách, được bồi dưỡng về năng lực chuyên môn nên yên tâm phấn khởi công tác, hoàn thành tốt nhiệm vụ đựoc giao.

Công tác kiểm tra luôn thực hiện tốt việc kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên theo điều 30 Điều lệ Đảng. Trong nhiệm kỳ, Đảng bộ huyện và các đảng bộ cơ sở đã xử lý kỷ luật 90 đảng viên, trong đó kiển trách 35 đồng chí, cảnh cáo 36 đồng chí, cách thức 6 đồng chí, khai trừ 13 đồng chí. Công tác kiểm tra thi kỷ luật Đảng của cấp uỷ, Ủy ban Kiểm tra huyện và cơ sở đã góp phần quan trọng vào củng cố và nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức cơ sơ đảng, làm trong sạch nội bộ Đảng.

Công tác củng cố chính quyền. Hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp đã có những bước đổi mới và thực hiện tốt hơn nhiệm vụ, chức năng theo luật định. Nội dung các kỳ họp Hội đồng nhân dân huyện và xã đã cụ thể và thiết thực hơn, một số chuyên đề, nghị quyết của Hội đồng nhân dân đã góp phần phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương. Hội đồng nhân dân đã chú ý hơn đến công tác giám sát, kiểm tra các hoạt động của chính quyền và tiếp xúc cử tri, coi trọng phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tập hợp phản ánh tâm tư, nguyện vọng hợp pháp của nhân dân đối với nhà nước.

Ủy ban nhân dân các cấp được kiện toàn sắp xếp theo nghị định 09/CP của Chính phủ. Quản lý nhà nước trên nhiều lĩnh vực có tiến bộ, chú trọng, kết hợp giữa phát triển kinh tế với văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Các cơ quan chuyên môn của Ủy ban Nhân dân các cấp được tổ chức sắp xếp lại; trình độ chuyên môn nghiệp vụ đội ngũ cán bộ viên chức nhà nước được nâng lên; thực hiện luật công chức có nhiều tiến bộ. Quy chế dân chủ sau khi được triển khai, nhiều cơ sở đã có những thay đổi, rà soát lại và xây dựng mới các quy định nhằm thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở. Chức danh trưởng thôn được chú ý kiện toàn nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị và phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn dân cư.

Công tác Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Trong 3 năm (1996-1998) dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân được phát huy. Các cấp uỷ Đảng từ huyện tới cơ sở đều rất quan tâm đến giải quyết các khó khăn về cơ sở vật chất, tạo điều kiện thuận lợi cho các đoàn thể hoạt động có hiệu quả. Cấp uỷ các cấp đã thường xuyên nghe Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân phản ánh để kịp thời có biện pháp giai quyết; quan tâm cử cán bộ đi học nâng cao trình độ có năng lực, trình độ và ý thức trách nhiệm phụ trách hoạt động của đoàn thể nhân dân. Công tác tuyên truyền vận động thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước đã hướng về cơ sở gắn với các chương trình kinh tế, xã hội của địa phương để tổ chức và tập hợp quần chúng. Nhiều hoạt động thi đua nhằm hưởng ứng các chỉ thị nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước trong đoàn viên hội viên được Mặt trận Tổ quốc, các cấp hội, đoàn thể duy trì tốt nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế, xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt cuộc vận động như “toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”, “toàn dân tham gia phòng chống tội phạm và thanh niên xung kích”, “thanh niên lập nghiệp”, “tuổi trẻ giữ nước”, “phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, nuôi dạy con tốt, xây dựng gia đình hạnh phúc”, “phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, cần kiệm xây dựng đất nước”, “nông dân tham gia sản xuất kinh doanh giỏi”, công nhân viên chức “thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo, xây dựng đơn vị xanh-sạch-đẹp”, “giữ vững và phát huy bản chất anh bộ đội cụ Hồ”... Những phong trào đó đã thu hút đông đảo đoàn viên, hội viên tham gia góp phần thắng lợi chung của huyện Tiên Sơn.

Sau 10 năm (1986-1998) thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Từ Sơn gặp không ít khó khăn chung của đất nước, nhất là những 1986-1990, đồng tiền mất giá, lạm phát phi mã tăng lên tới 774%, hàng hóa khan hiến, kỹ thuật yếu kém,… Những Đảng ta đã kịp thời có chính sách để phát triển kinh tế. Trong bối cảnh chung ấy, Từ Sơn cùng với nhân dân Tiên Sơn từng bước vượt qua khó khăn ban đầu của công cuộc đổi mới để vững bước đi lên, đặc biệt sau 3 năm (1996-1998), thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng bộ huyện Tiên Sơn, Đảng bộ và nhân dân Từ Sơn đã đạt được những thành tựu quan trọng: kinh tế, xã hội, giáo dục, y tế, văn hóa phát triển mạnh mẽ; tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện, nâng cao; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; Công tác xây dựng Đảng, củng cố chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể quần chúng ngày càng đi vào chiều sâu; vai trò lãnh đạo của Đảng bộ các cấp được nâng cao và ngày càng có uy tín trong nhân dân. Đó chính là cơ sở để Đảng và Nhà nước quyết định tái lập lại huyện Từ Sơn.

G. Huyện Từ Sơn tái lập, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1999 - 2008)

I. HUYỆN TỪ SƠN TÁI LẬP, KẾT QUẢ SAU KHI TÁI LẬP (1999-2000)

1. Tái lập huyện Từ Sơn

Ngày 9-8-1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 68/1999/NĐ-CP về việc chia tách huyện Tiên Sơn thành hai huyện Từ Sơn và Tiên Du; chia tách huyện Gia Lương thành hai huyện Gia Bình và Lương Tài. Theo đó, huyện Từ Sơn có 6.027,7 ha diện tích tự nhiên và 114.825 nhân khẩu; 11 đơn vị hành chính trực thuộc gồm các xã Châu Khê, Đình Bảng, Đồng Quang, Đồng Nguyên, Hương Mạc, Phù Chẩn, Phù Khê, Tân Hồng, Tam Sơn, Tương Giang và thị trấn Từ Sơn.

Địa giới hành chính huyện Từ Sơn: phía Đông giáp huyện Tiên Du; phía Tây và Nam giáp thành phố Hà Nội; phía Bắc giáp các huyện Yên Phong, Tiên Du.

Cùng với việc thành lập chính quyền, Đảng bộ huyện Từ Sơn và các ban ngành, đoàn thể cũng được tái lập. Căn cứ vào Nghị định 68/NĐ-CP của Chính phủ về việc chia tách huyện Tiên Sơn để thành lập huyện Từ Sơn và Tiên Du, ngày 15-8-1999 Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bắc Ninh ra Quyết định số 184/QĐ-TU, về việc tái thành lập Đảng bộ huyện Từ Sơn. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Lâm thời huyện Từ Sơn có 27 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Phụ Đông, Tỉnh ủy viên được cử làm Bí thư Huyện ủy Lâm thời. Đồng chí Nguyễn Đức Tuất Phó Bí thư, quyền Chủ tịch Ủy ban nhân dân Lâm thời. Đồng chí Đỗ Văn Thiêm, Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy Lâm thời.

Ban Thường vụ Huyện ủy lâm thời gồm các đồng chí Nguyễn Phụ Đông, Nguyễn Đức Tuất, Đỗ Văn Thiêm, Nguyễn Văn Phiên, Ngô Hữu Tiến, Trần Thiện Biên, Nguyễn Văn Hiệp, Nguyễn Đức Minh. Trong 27 đồng chí của Ban Chấp hành Lâm thời có 02 đồng chí được chỉ định bổ sung là đồng chí Nguyễn Đức Minh, Trưởng Công an huyện và đồng chí Nguyễn Ngọc Tú, Chánh Văn phòng Huyện ủy.

Trước yêu cầu nhiệm vụ của huyện mới được tái lập, nhiều công việc cấp thiết đặt ra cho Đảng bộ và nhân dân toàn huyện, Ban Chấp hành Đảng bộ Lâm thời huyện đã đề ra 10 nhiệm vụ trước mắt cần giải quyết ngay sau khi tái lập huyện: 1) Ổn định nơi làm việc, tiến hành sắp xếp tổ chức cán bộ; 2) Lãnh đạo bầu cử hội đồng nhân dân các cấp đúng luật đạt kết quả; 3) Chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2); 4) Chỉ đạo xây dựng quy hoạch tổng thể về kinh tế, văn hóa và trung tâm huyện lỵ; 5) Thực hiện quản lý đô thị, bảo vệ vệ sinh môi trường; 6) Xây dựng cụm công nghiệp làng nghề Đa Hội và một số điểm công nghiệp khác; 7) Sắp xếp cơ cấu vụ mùa, xác định cơ cấu giống cây trồng vật nuôi; 8) Đẩy mạnh củng cố hợp tác xã nông nghiệp, dịch vụ; 9) Đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân xây dựng nếp sống mới trên địa bàn dân cư; 10) Thực hiện Nghị quyết 09 về phòng chống tội phạm, tăng cường chỉ đạo công tác an ninh, đổi mới công tác tuyển quân, sẵn sàng tham gia chiến đấu.

Sau khi được tái lập, nhiệm vụ trước mắt là mau chóng củng cố lại bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ các cơ quan, ban ngành trong huyện nhằm đảm bảo hoạt động của địa phương theo đơn vị hành chính mới. Dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, trực tiếp là Ban Thường vụ lâm thời huyện ủy, các hoạt động của huyện mau chóng đi vào nền nếp và đạt được những kết quả bước đầu về mọi mặt.

2. Kết quả sau gần 2 năm tái lập lập huyện

Sau 2 năm (1999-2000), huyện Từ Sơn được tái lập trong điều kiện kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất còn thiếu, đội ngũ cán bộ biến động cùng với những mặt trái của nền kinh tế thị trường, song với tinh thần đoàn kết phấn đấu, Đảng bộ và nhân dân trong huyện đã phát huy thế mạnh của các tiềm năng kinh tế, văn hóa địa phương, khắc phục khó khăn và giành được những kết quả đáng phấn khởi trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, xây dựng Đảng, củng cố chính quyền và các đoàn thể quần chúng vững mạnh.

Phát triển kinh tế. Cấp ủy đã tập trung chỉ đạo xây dựng đề án đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, đề án mở rộng quy mô sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, quy hoạch cụm công nghiệp làng nghề Châu Khê, Đồng Quang và Đình Bảng; đề án phát triển thương mại và du lịch; đề án chống thất thu thuế làng nghề, đề án cứng hóa hệ thống kênh mương phục vụ sản xuất… qua đó định hướng phát triển cho từng lĩnh vực trong các năm tới, tập trung tháo gỡ khó khăn và tiếp tục đẩy mạnh sản xuất phát triển.

Trong sản xuất nông nghiệp đã chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật tới hộ nông dân, đưa các giống lúa mới, lúa lai có năng suất và hiệu quả kinh tế cao vào sản xuất, chuyển dịch cơ cấu cây trồng gắn với cơ cấu mùa vụ. Một số mô hình nuôi trồng cây, con đặc sản, tăng giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích, xóa thế độc canh cây lúa, tạo bước phát triển tích cực trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa. Nhờ vậy, cả năng suất và sản lượng đều tăng. Năm 2000, năng suất lúa đạt 50 tạ/ha/vụ, tổng sản lượng đạt 38.045 tấn; bình quân lương thực đầu người đạt 325 kg.

Công tác thủy lợi được chú trọng nhằm bảo đảm nguồn nước tưới tiêu phục vụ sản xuất. Hằng năm huyện đều hoàn thành kế hoạch đào đắp tu bổ đê, kè trước thời hạn. Chương trình kiên cố hóa kênh mương được các cấp quan tâm chỉ đạo. Năm 2000, thực hiện kiên cố hoá kênh mương cấp 2, cấp 3 với giá trị đầu tư trên 4 tỷ đồng.

Chăn nuôi tiếp tục phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Năm 2000 đàn lợn có 51.700 con, tăng gần gấp đôi so với năm 1996. Đàn trâu cày kéo giảm do tốc độ cơ giới hóa nhanh; đàn bò lai Sind phát triển mạnh theo hướng lấy thịt và sữa. Một bộ phận dân cư đã tích cực tiếp thu khoa học kỹ thuật, tổ chức chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa; nuôi thả cá được các cơ sở quan tâm. Đặc biệt hợp tác xã Đình Bảng đã thành công trong mô hình nuôi cá đồng trũng (một vụ lúa và nuôi cá) đã tạo nhiều sản phẩm cho xã hội và đem lại giá trị kinh tế cao.

Ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ phát triển mạnh mẽ, phong phú và đa dạng. Trong 2 năm (1999-2000), huyện tập trung chỉ đạo các ngành triển khai thực hiện chuyển đổi các đơn vị sản xuất kinh doanh, đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã và thực hiện Nghị quyết 04-NQ-TU của Tỉnh ủy về phát triển làng nghề tiểu thủ công nghiệp. Nhờ phát huy thế mạnh làng nghề, các doanh nghiệp, doanh nhân không ngừng đổi mới công nghệ, từ sản xuất thủ công sang cơ khí hóa trong sản xuất, điển hình như sản xuất sắt thép Châu Khê, dệt Tương Giang, gỗ mỹ nghệ Phù Khê, Đồng Kỵ, Hương Mạc đã cơ khí hóa nhiều khâu trong sản xuất. Ngoài ra, các cơ sở sản xuất còn chú trọng đổi mới mẫu mã, mở rộng mặt hàng, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ ra các nước trong khu vực.

Để tiếp tục đẩy mạnh phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, huyện xúc tiến làm quy hoạch và xây dựng các cụm công nghiệp làng nghề, như cụm công nghiệp sắt thép Châu Khê 13,5 ha, cụm công nghiệp sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ Đồng Quang 12,6 ha. Việc hình thành các cụm công nghiệp làng nghề nhằm mục địch đáp ứng nhu cầu mặt bằng cho sản xuất, giúp các doanh nghiệp, doanh nhân có điều kiện mở rộng sản xuất và đổi mới công nghệ. Các doanh nghiệp có điều kiện thành lập các hiệp hội theo từng mặt hàng, tăng sức đầu tư và đảm bảo quyền lợi người sản xuất, cạnh tranh lành mạnh, góp phần quan trọng làm giảm ô nhiễm môi trường sống ở các làng nghề, đồng thời việc quản lý và giúp đỡ của Nhà nước đối với làng nghề cũng thuận lợi hơn.

Ngoài các cụm công nghiệp làng nghề, huyện đã chủ động xây dựng một số cụm công nghiệp đa nghề, kêu gọi các nhà doanh nghiệp trong và ngoài huyện vào đầu tư như cụm công nghiệp trung tâm huyện, cụm công nghiệp Đình Bảng, cụm công nghiệp Dương Lôi-Tân Hồng và cụm công nghiệp Đồng Nguyên với tổng diện tích khoảng 70ha. Tới năm 2000, đã có hàng chục doanh nghiệp ở Hà Nội xin đầu tư vào các cụm công nghiệp. Với sự phát triển các cụm công nghiệp đã tạo ra hàng nghìn việc làm mới cho người lao động trẻ ở nông thôn, đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện cơ giới hóa đồng bộ trong sản xuất nông nghiệp, thiết thực thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trên quê hương Từ Sơn.

Đến năm 2000, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở Từ Sơn đã có bước khởi sắc, toàn huyện có 189 đơn vị kinh tế, trong đó có 68 công ty trách nhiệm hữu hạn, 92 hợp tác xã, 28 xí nghiệp, một công ty cổ phần và có hàng nghìn hộ sản xuất kinh doanh vừa và nhỏ. Kinh tế công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng mạnh mẽ, tốc độ tăng bình quân 40,6%, trong đó riêng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ngoài quốc doanh tăng 43,8%. Đây là tốc độ tăng khá cao so với tình hình chung trong tỉnh và trong khu vực. Một số mặt hàng có khối lượng lớn và tốc độ tăng trưởng nhanh tập chung chủ yếu ở các làng nghề như Đa Hội-Châu Khê và Đồng Quang. Sản xuất sắt thép các loại đạt sản lượng từ 8.000 tấn năm 1996, đạt 86.000 tấn năm 1999 và đạt 117.566 tấn năm 2000. Đồ gỗ cao cấp năm 2000 giá trị sản lượng tăng 4 lần so với năm 1996 và tăng 34% so với năm 1989, giải quyết việc làm cho hàng ngàn lao động trên địa bàn.

Giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp các năm đều tăng mạnh, từ 320 tỷ đồng 459 tỷ đồng (trong đó giá trị sản xuất của công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ngoài quốc doanh đạt 532 tỷ) năm 2000 đạt. So với năm 1996, năm 1999 tăng gấp 3 lần, năm 2000 tăng 4,3 lần. Giá trị xuất khẩu năm 2000 là 111 tỷ đồng so với 1999 tăng 16,5%.

Sau gần 2 năm (1999-2000) tái lập, mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy lâm thời huyện Từ Sơn, nhân dân trong huyện đã đạt được kết quả đáng khích lệ, nhiều mặt có chuyển biến tích cực, có chỉ tiêu đạt và vượt chỉ tiêu: nhịp độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm 20,9% vượt 8,4% chỉ tiêu, trong đó nông lâm nghiệp tăng trưởng bình quân hàng năm 10,4% vượt chỉ tiêu 6,3%; công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ngoài quốc doanh tăng trưởng bình quân hàng năm 40,6% vượt chỉ tiêu 18,9%; thương mại-dịch vụ tăng trưởng bình quân hàng năm 14,5%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hiện đại, tỷ trọng công nghiệp tăng, tỷ trọng nông nghiệp giảm. Năm 2000, cơ cấu kinh tế của toàn huyện: tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đạt 45,8% (vượt 7,8% so với chỉ tiêu Đại hội đề ra), nông nghiệp giảm từ 35% xuống 21,7%.

Giao thông, xây dựng có bước chuyển biến mạnh mẽ từ khi thực hiện tốt Nghị quyết số 01/NQ-TU của Tỉnh ủy Bắc Ninh về phát triển giao thông nông thôn. Trong 2 năm (1999-2000), toàn huyện đã đầu tư được 12,4 tỷ đồng làm mới và nâng cấp nhiều tuyến đường. Chính quyền địa phương đã chuẩn bị tốt các điều kiện xây dựng cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động của các cơ quan đảng, chính quyền, các ban ngành, đoàn thể của huyện, góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn của huyện theo hướng đô thị hóa, công nghiệp hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội của huyện.

Thông tin liên lạc phát triển mạnh, đáp ứng tốt nhu cầu phục vụ nhân dân. Năm 1999, đã có 9/10 xã có điểm văn hóa bưu điện, toàn huyện có 5.954 máy điện thoại, bình quân 4,7 máy/100 dân, tăng 2,2 máy so với năm 1998. Số máy lắp đặt năm 1999 là 1.227 chiếc tăng 67% so với năm 1997. Năm 1999, dịch vụ thông tin, viễn thông đạt 8,2 tỷ đồng, tăng 37,3% so với 1998.

Công tác giáo dục ngày càng phát triển toàn diện cả ba ngành học mầm non, phổ thông và giáo dục thường xuyên. Để đáp ứng nhu cầu học tập của con em nhân dân, huyện đã mở thêm Trường phổ thông trung học Ngô Gia Tự và Trường phổ thông trung học dân lập Từ Sơn, thu hút gần 1.000 học sinh theo học. Năm 2000, toàn huyện đã đạt tiêu chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học ở độ tuổi 11, có 06 đơn vị đạt tiêu chuẩn phổ cập giáo dục phổ thông cơ sở, gồm thị trấn Từ Sơn, các xã Đồng Nguyên, Tân Hồng, Tương Giang, Tam Sơn, Đình Bảng. Toàn huyện có 75% số phòng học được xây dựng kiên cố. Phong trào thi đua dạy tốt học tốt diễn ra khá sôi nổi. Nhiều giáo viên đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi cấp huyện, cấp tỉnh.

Công tác chăm sóc bảo vệ sức khỏe cho nhân dân được đẩy mạnh, trung tâm y tế huyện đã khám và điều trị cho hàng nghìn lượt bệnh nhân; công suất sử dụng giường bệnh đạt 70%. Các chương trình quốc gia như tiêm chủng, phòng chống HIV/AIDS được thực hiện tích cực và hiệu quả. Đội ngũ cán bộ y tế cơ sở đã có 04 bác sĩ đa khoa, 53 y sĩ và điều dưỡng viên, góp phần tích cực vào phòng chống dịch bệnh, chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân. Công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình được các cấp, các ngành quan tâm đúng mức, góp phần hạ tỷ lệ gia tăng dân số xuống 1,23%.

Công tác văn hóa, thông tin, thể dục thể thao không ngừng phát triển từ huyện đến cơ sở. Phong trào xây dựng làng văn hóa, khu dân cư văn hóa, gia đình văn hóa được kết hợp chặt chẽ với phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới trên địa bàn dân cư. Năm 1999, có 24 làng được công nhận làng văn hóa, chiếm 39% tổng số làng toàn huyện, trong đó có 07 làng văn hóa cấp tỉnh, 17 làng văn hóa cấp huyện. Các làng văn hóa đã thực hiện tốt Chỉ thị 27/CT-TW về tổ chức đám cưới, đám tang, lễ hội theo nếp sống mới.

Các hoạt động thông tin tuyên truyền, văn nghệ quần chúng, tôn tạo và bảo vệ di tích lịch sử-văn hóa, tổ chức lễ hội… luôn được huyện và ngành quan tâm chỉ đạo nên các giá trị văn hóa và bản sắc văn hóa vùng quê Kinh Bắc được giữ gìn, phát huy. Công tác quản lý văn hóa, dịch vụ, thể dục thể thao được chú trọng, phát triển lành mạnh.

Phong trào thể dục, thể thao như bóng đá, bóng chuyền, cầu lông phát triển ở nhiều cơ sở, nhất là trong các trường học, cơ quan. Đài truyền thanh huyện đã được đầu tư xây dựng hệ thống phát sóng FM với tổng kinh phí 400 triệu đồng đi vào hoạt động, phục vụ hiệu quả nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Công tác an ninh, quốc phòng. Từ khi tái lập huyện, xuất phát từ tình hình thực tế địa phương, huyện thường xuyên quán triệt và thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên về công tác quốc phòng an ninh, bảo vệ chính trị nội bộ và xây dựng các cơ quan thuộc khối nội chính vững mạnh. Nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân được cấp ủy đảng, chính quyền các cấp coi trọng. Công tác quân sự địa phương được giữ vững và có nhiều chuyển biến tích cực, chất lượng hoạt động và huấn luyện dân quân, tự vệ được nâng lên.

Thực hiện Nghị quyết 09 và chương trình quốc gia phòng chống tội phạm đã thu được nhiều kết quả, an ninh trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn huyện được giữ vững. Một số điểm phức tạp về tình hình an ninh nông thôn đã được giải quyết kịp thời, góp phần tích cực vào kết quả bầu cử hội đồng nhân dân các cấp và đại hội các chi, đảng bộ cơ sở thành công.

Sau gần 2 năm tái lập (1999-2000), huyện Từ Sơn đã có sự phát triển nhanh chóng, toàn diện về kinh tế, văn hóa-xã hội. Thị trấn Từ Sơn, trụ sở huyện lỵ khang trang, nhộn nhịp, sạch đẹp. Các xã Đồng Quang, Châu Khê, Đình Bảng, Tân Hồng, Đồng Nguyên, Tương Giang với các khu công nghiệp làng nghề, đa nghề ra đời làm thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, tạo những tiền đề vững chắc trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Từ Sơn những năm tiếp theo.

3. Công tác xây dựng Đảng, củng cố chính quyền và các đoàn thể quần chúng

Công tác xây dựng Đảng. Năm 2000, Đảng bộ huyện Từ Sơn có 46 đảng bộ cơ sở và chi bộ trực thuộc, được kiện toàn với tổng số 220 đồng chí cấp ủy viên. Trong đó, có 136 đồng chí tái cử bằng 64%, 26 đồng chí nữ bằng 12,1%; tuổi bình quân cấp ủy mới là 45,5 tuổi. Trình độ chính trị, chuyên môn nghiệp vụ có tiến bộ hơn, có 50,4% cấp ủy viên có trình độ cao đẳng và đại học, 59,6% có trình độ trung cấp và cao cấp lý luận… Các cấp ủy quan tâm củng cố, kiện toàn tổ chức cơ sở yếu kém, tập trung giải quyết cơ bản những bức xúc trong quần chúng nhân dân, kịp thời giải quyết những vi phạm của cán bộ, đảng viên thông qua cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2). Thực hiện đấu tranh tự phê bình và phê bình trong Đảng nghiêm túc và chặt chẽ. Qua phân tích chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên để tìm ra nguyên nhân và biện pháp khắc phục tồn tại, tích cực phấn đấu xây dựng chi, đảng bộ đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh.

Công tác kiện toàn tổ chức và cán bộ được coi là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu khi huyện được tái lập. Sau lễ ra mắt, Huyện ủy, Ủy ban lâm thời huyện đã kịp thời có chủ trương sắp xếp, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ có đủ năng lực, trình độ đảm đương các nhiệm vụ quan trọng trên các lĩnh vực. Công tác huấn học được chỉ đạo chặt chẽ, tổ chức một lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác cho 154 đồng chí cấp ủy cơ sở; mở bốn lớp bồi dưỡng đối tượng Đảng cho 303 quần chúng tiêu biểu, kết nạp được 155 đảng viên mới; mở hai lớp lý luận chính trị phổ thông cho 54 đảng viên trước khi chuyển Đảng chính thức; mở một lớp văn hóa cơ sở cho 74 học viên và ba lớp bồi dưỡng hội đồng nhân dân cấp xã cho 234 đại biểu.

Công tác kiểm tra của Đảng đã chỉ đạo, kiểm tra thực hiện nguyên tắc sinh hoạt đảng ở ba tổ chức cơ sở đảng và đảng viên theo Điều lệ Đảng. Kiểm tra phục vụ công tác nhân sự hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân và công tác nhân sự đại hội đảng các cấp. Đảng bộ đã xem xét, xử lý kỷ luật 32 đảng viên, trong đó khiển trách 20, cảnh cáo 9, cách chức 02 và khai trừ  01 trường hợp, riêng cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý phải xử lý 11 đồng chí bằng 34%.

Công tác củng cố chính quyền. Hoạt động của chính quyền từ huyện đến cơ sở có nhiều tiến bộ, hiệu lực quản lý nhà nước được nâng lên một bước. Ngày 14-11-1999 cử tri trong toàn huyện đã đi bầu đại biểu Hội đồng nhân dân khóa XV, nhiệm kỳ 1999-2004 và hội đồng nhân dân xã. Hội đồng nhân dân huyện khóa XV có 29 đại biểu do ông Nguyễn Phụ Đông làm Chủ tịch, ông Nguyễn Ngọc Uyển làm Phó Chủ tịch. Ủy ban nhân dân do ông Nguyễn Đức Tuất làm Chủ tịch, ông Nguyễn Văn Phiên, ông Nguyễn Đình Thắng làm Phó Chủ tịch. Ủy ban nhân dân các cấp từng bước được kiện toàn và đi vào hoạt động theo Nghị quyết 09/CP của Chính phủ. Quản lý nhà nước trên nhiều lĩnh vực có tiến bộ, đã chú trọng kết hợp giữa phát triển kinh tế với văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng.

Công tác Mặt trận và đoàn thể nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân được phát huy. Mặt trận và các đoàn thể đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của huyện, ủng hộ đồng bào miền Trung, miền Nam bị lũ lụt, tham gia xây dựng chính quyền, đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư.

Sau gần 2 năm (1999-2000) tái lập, dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, Đảng bộ và nhân dân huyện Từ Sơn đã nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, thử thách giành được những thành tựu rất quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Thực hiện đạt và vượt nhiều mục tiêu chủ yếu do Đại hội lần thứ XIV đề ra; chính trị ổn định; kinh tế phát triển với nhịp độ cao; hạ tầng kinh tế-xã hội, năng lực sản xuất được tăng cường. Toàn huyện có nhiều thay đổi theo hướng đô thị hoá nông thôn, văn hoá, xã hội phát triển, xứng đáng là một trong những trung tâm phát triển kinh tế của tỉnh. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện, dân chủ được phát huy; hệ thống chính trị được củng cố, vai trò lãnh đạo của Đảng được khẳng định, sự điều hành của các cấp chính quyền ngày càng chặt chẽ và có hiệu quả, hoạt động của các đoàn thể nhân dân có nhiều đổi mới tiến bộ. Đó là điều kiện thuận lợi để Từ Sơn bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trở thành đô thị giàu đẹp.

II. ĐẢNG BỘ HUYỆN TỪ SƠN LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA (2000-2008)

1. Đại hội Đảng bộ huyện Từ Sơn lần thứ XIV, nhiệm kỳ (2000-2005)

Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, từ ngày 20 đến 22-10-2000, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Từ Sơn lần thứ XIV* được triệu tập tại Hội trường Trường Đại học thể dục thể thao Trung ương I Từ Sơn (thôn Trang Liệt, xã Đồng Quang). Tham dự Đại hội có 149 đại biểu chính thức đại diện cho 46 chi, đảng bộ trong toàn huyện. Về dự và chỉ đạo Đại hội có các đồng chí Ngô Đình Loan, Bí thư Tỉnh ủy; đồng chí Nguyễn Thế Thảo, Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh, đồng chí Ngô Văn Luật, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy và các đồng chí trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bắc Ninh.

Đại hội thảo luận đóng góp ý kiến vào Dự thảo các văn kiện trình Đại hội IX của Đảng; báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh lần thứ XV trình Đại hội Đảng bộ lần thứ XVI; Báo cáo của Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ huyện trình Đại hội lần thứ XIV. Đánh giá kết quả của nhiệm kỳ trước, Báo cáo của Đại hội chỉ rõ: dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XIII, sự điều hành của chính quyền huyện, cùng với sự nỗ lực phấn đấu của các cấp, các ban, ngành, đoàn thể và nhân dân trong huyện, việc thực hiện các mục tiêu kinh tế của huyện 5 năm (1996-2000) đạt kết quat tốt, nhiều mặt có chuyển biến tích cực, có chỉ tiêu đạt và vượt chỉ tiêu Đại hội đề ra; nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao và có sự chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ tăng, tỷ trọng kinh tế nông nghiệp giảm; đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, nâng cao; Sự nghiệp văn hóa-xã hội phát triển khá toàn diện; quốc phòng, an ninh được giữ vững. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền và hoạt động của đoàn thể nhân dân đã có bước đổi mới. Nhiều hình thức, phương thức lãnh đạo, chỉ đạo mới được áp dụng.

Đại hội thông qua Nghị quyết xác định rõ phương hướng chung của nhiệm kỳ tiếp theo: “Đẩy mạnh phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp vừa và nhỏ, tích cực phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa. Thực hiện tiết kiệm, tăng nhanh tích lũy vốn nhằm đẩy mạnh sản xuất và xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội. Chú ý khai thác và phát triển các tiềm năng thương mại-du lịch và dịch vụ. Từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân trong huyện. Đảm bảo giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.

Đại hội đề ra các mục tiêu chủ yếu đề ra cho kế hoạch 5 năm (2001-2005): tăng trưởng kinh tế bình quân hằng năm 13,1% trong đó: Nông nghiệp: 6,5%; Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp: 17,1%; Thương mại dịch vụ: 12,2%.

Phấn đấu đến năm 2005, cơ cấu kinh tế của toàn huyện có tỷ trọng: công nghiệp-xây dựng (kể cả quốc doanh và ngoài quốc doanh) chiếm 64,5% tổng giá trị (riêng ngoài quốc doanh chiếm 54,5% tổng giá trị); nông nghiệp: chiếm 16%; dịch vụ thương mại: chiếm 19,5%. Phấn đấu đến năm 2005, giá trị sản xuất ngành nông nghiệp đạt 172 tỷ đồng; giá trị sản xuất trồng trọt đạt 34,6 triệu/1 ha canh tác/ năm; thu nhập bình quân đầu người đạt 546 USD.

Năng suất lúa phấn đấu đạt 120 tạ/ha/năm, tổng giá trị sản lượng 42.730 tấn; hệ số quay vòng ruộng đất 2,3 lần. Giá trị sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp đạt 856 tỷ đồng (trong đó ngoài quốc doanh đạt 7,5 tỷ đồng). Tổng thu ngân sách nhà nước đạt 15,5 tỷ đồng. Tỷ lệ gia tăng dân số giảm xuống còn 1,07%; 60% số làng trong toàn huyện đạt tiêu chuẩn làng văn hóa; phổ cập phổ thông cơ sở vào năm 2002, tiến tới phổ cập phổ thông trung học; số hộ nghèo giảm còn 0,8%.

Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành mới gồm 29 đồng chí, trong đó có 10 đồng chí là Bí thư, chủ tịch các xã, thị trấn. Ban Chấp hành đã bầu ra Ban Thường vụ Huyện ủy gồm 09 đồng chí: Nguyễn Phụ Đông, Nguyễn Đức Tuất, Đỗ Văn Thiêm, Ngô Hữu Tiến, Nguyễn Ngọc Tú, Nguyễn Văn Phiên, Nguyễn Văn Hiệp, Trần Thiện Biên, Nguyễn Đức Minh. Đại hội bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XVI gồm 17 đồng chí chính thức và một đồng chí dự bị.

Tại phiên họp thứ nhất, Ban Chấp hành đảng bộ huyện khóa XIV đã bầu đồng chí Nguyễn Phụ Đông, Tỉnh ủy viên làm Bí thư Huyện ủy. Các đồng chí Nguyễn Đức Tuất, Đỗ Văn Thiêm làm Phó Bí thư. Ngày 1-9-2002, đồng chí Đỗ Văn Thiêm được điều lên tỉnh nhận nhiệm vụ mới, đồng chí Ngô Hữu Tiến được bầu làm Phó Bí thư thường trực Huyện ủy Từ Sơn.

Đại hội Đảng bộ huyện Từ Sơn lần thứ XIV là mốc son đánh dấu bước đường phát triển của Từ Sơn sau khi huyện được tái lập. Sau Đại hội, toàn huyện đã tạo ra khí thế và động lực mới thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội, phấn đấu thực hiện các mục tiêu, phương hướng do Đại hội đề ra.

Phát triển kinh tế. Sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp có bước phát triển vượt bậc, trở thành ngành kinh tế chủ đạo của địa phương. Trong 5 năm (2000-2005), dưới sự chỉ đạo của huyện ủy, chính quyền cùng các cơ quan ban ngành của huyện tích cực triển khai phát triển kinh tế công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, hoàn thiện và mở rộng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp làng nghề, đa nghề. Nhà nước đã thu hồi trên 200 ha đất nônng nghiệp để xây dựng các khu công nghiệp tập trung của tỉnh và hình thành 6 cụm công nghiệp làng nghề và đa nghề của huyện với diện tích 73,1 ha; xét duyệt cho 494 doanh nghiệp và hộ thuê đất. Đến năm 2005, trên 90% doanh nghiệp và hộ xây dựng nhà xưởng, lắp đặt máy móc, thiết bị… đầu tư gần một nghìn tỷ đồng, thu hút 8.200 lao động, góp phần đưa giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đạt 1.670 tỷ đồng, tăng 3,6 lần so với năm 2000, vượt 1,9 lần chỉ tiêu Đại hội.

Có được kết quả đó là do lãnh đạo thực hiện thành công chủ trương xây dựng các cụm công nghiệp làng nghề của huyện, đã giải quyết được vấn đề bức xúc về mặt bằng để mở rộng đầu tư và từng bước đổi mới công nghệ, góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường ở các làng nghề. Bên cạnh phát triển công nghiệp làng nghề, huyện còn chú trọng phát triển các cụm công nghiệp đa nghề nhằm thu hút các nhà đầu tư phát triển công nghiệp qui mô vừa và nhỏ có công nghệ tiên tiến, đảm bảo sự phát triển công nghiệp của huyện bền vững.

Thương mại dịch vụ có bước phát triển mạnh. Mạng lưới chợ huyện ngày càng được mở rộng và hoạt động sôi động. Đến tháng 10/2004, toàn huyện có 165 doanh nghiệp và hơn 3.900 hộ với trên 6.770 lao động hoạt động kinh doanh thương mại dịch vụ. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ năm 2005 đạt 950 tỷ đồng, tăng 2,66 lần, vượt mục tiêu Đại hội. Kim ngạch nhập khẩu đạt 7,5 triệu USD, tăng 3,7 lần so với năm 2000; kim ngạch xuất khẩu đạt 14,2 triệu USD tăng 1,52 lần so với năm 2000.

Hoạt động du lịch đã có bước chuyển biến tích cực với tiềm năng du lịch làng nghề, lễ hội hàng năm thu hút hàng chục nghìn lượt khách đến thăm quan du lịch… Hoạt động bưu chính viễn thông đạt khá. Năm 2005, có 22.336 máy thuê bao đạt bình quân 17,5 máy/100 dân (tăng 3 lần so với năm 2000).

Sản xuất nông nghiệp phát triển với nhịp độ khá. Giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2005 đạt 180,7 tỷ đồng, tăng 30% so với năm 2000 và bằng 105% chỉ tiêu Đại hội đề ra. Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng trong điều kiện diện tích đất nông nghiệp giảm là do chăn nuôi phát triển mạnh, thể hiện cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tăng nhanh tỷ trọng chăn nuôi từ 33,4% năm 2000 lên 45,5% năm 2005; giảm tỷ trọng trồng trọt từ 60,3% năm 2000 còn 51,2% năm 2005.

Trong trồng trọt, người nông dân tích cực áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, như đưa giống lúa có năng suất, chất lượng cao vào sản xuất, khoai tây bảo quản trong kho lạnh, phát triển mạ khay... đã hình thành và phát triển một số vùng chuyên canh cây hàng hoá như lúa nếp, hoa, rau sạch..., giá trị sản xuất trồng trọt năm 2005 ước đạt 35 triệu/1 ha, tăng 9,3 triệu so với năm 2000, vượt chỉ tiêu Đại hội đề ra (34,6 triệu/1 ha).

Chăn nuôi phát triển khá toàn diện như chăn nuôi lợn hướng lạc, bò sữa, bò lai Sind, gà công nghiệp và chim cút bước đầu chuyển mạnh theo hướng sản xuất hàng hoá. Năm 2005, toàn huyện có 1.150 hộ chăn nuôi gia súc, gia cầm quy mô vừa và nhỏ; 203 trang trại (99 trang trại chăn nuôi qui mô vừa và lớn). Đã hình thành được qui mô hình nuôi cá đồng trũng, tận dụng hầu hết diện tích nước ao hồ và chuyển đổi 84 ha ruộng trũng để nuôi trồng thuỷ.

Hoạt động của các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp được duy trì và từng bước đổi mới. Năm 2005, toàn huyện có 3 hợp tác xã quy mô toàn xã (Đình Bảng, Đồng Nguyên, Tân Hồng), còn lại là hợp tác xã thôn và liên thôn. Các hợp tác xã đã làm khá tốt các khâu dịch vụ thiết yếu phục vụ sản xuất như: tưới tiêu, chuyển giao khoa học kỹ thuật, cung ứng giống, bảo vệ thực vật, làm đất. Các hợp tác xã dịch vụ còn làm tốt công tác tuyên truyền phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, trực tiếp nhận sự hỗ trợ của Nhà nước cho kinh tế hộ, giúp các hộ nông dân sản xuất hàng hoá, tham gia tích cực vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn.

Trong 5 năm (2001-2005), tăng trưởng bình quân (GDP) hàng năm tăng của cả huyện đạt 16,4%, vượt 3,3% so với chỉ tiêu Đại hội đề ra. Trong đó: nông nghiệp tăng 3,5%; công nghiệp-xây dựng cơ bản tăng 19,35%; dịch vụ tăng 17,4%. Thu nhập bình quân đầu người năm 2005 đạt 568 USD. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng công nghiệp-xây dựng cơ bản từ 58% năm 2000 lên 65,8% năm 2005; nông nghiệp giảm từ 20% còn 11%; dịch vụ tăng từ 22% lên 23,2% năm 2005.

Công tác tài chính, tín dụng thu ngân sách hàng năm đều tăng. Năm 2005 đạt 75 tỷ đồng, tăng 6,8 lần so với năm 2000, vượt mục tiêu đại hội đề ra đã cơ bản đáp ứng yêu cầu chi các hoạt động thường xuyên và nhiệm vụ đột xuất của huyện. Hoạt động ngân hàng, tín dụng tích cực phục vụ phát triển kinh tế-xã hội với 8 ngân hàng thương mại và 5 quỹ tín dụng nhân dân. Năm 2005, tổng nguồn vốn huy động đạt 500 tỷ đồng, dư nợ đạt trên 900 tỷ đồng, tăng 10 lần so với năm 2000; đã đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp và nhân dân, góp phần quan trọng phát triển kinh tế-xã hội của huyện.

Kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống được tăng cường đáng kể, từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội. Với phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm, huyện và chính quyền xã tập trung cao huy động mọi nguồn vốn, tranh thủ sự giúp đỡ của cấp trên để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội. Trong 5 năm (2000-2005), toàn huyện đã đầu tư 330 tỷ đồng để xây dựng các tuyến đường giao thông, thuỷ lợi, công sở và các công trình phúc lợi khác. Trong đó, ngân sách cấp huyện, tỉnh đầu tư 229 tỷ, các xã 101 tỷ đồng.

Bước đầu thực hiện tốt chủ trương chủ động lo vốn từ đấu thầu đất tạo vốn xây dựng hạ tầng phúc lợi xã hội của huyện, Việc quản lý, sử dụng vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản đảm bảo chặt chẽ đúng pháp luật và có hiệu quả. Cùng với sự đầu tư hàng nghìn tỷ đồng xây dựng nhà xưởng và khu dân cơ đô thị từ vốn của nhân dân, nguồn vốn từ đấu giá dịch vụ nhà đất, đã làm thay đổi cơ bản vóc dáng của huyện Từ Sơn. Thực hiện chủ trương đấu thầu đất ở tạo vốn xây dựng cơ bản, huyện đã xây dựng được 3 cụm dân cư đô thị để bán và chỉ đạo các xã đấu thầu đất ở, thu được trên 300 tỷ đồng.

Công tác quản lý đất đai đã chú trọng xây dựng quy hoạch sử dụng đất đai ở huyện và cơ sở. Quản lý đất đai dần đi vào nền nếp, hiện tượng lấn chiếm đất công, bán đất trái phép đã giảm mạnh. Công tác đăng ký thống kê cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất được triển khai thường xuyên. Công tác giao đất và cho thuê đất được tổ chức thực hiện đúng luật, phục vụ kịp thời sự phát triển kinh tế xã hội của huyện. Từ năm 1999-2005 đã có 427,5 ha chuyển đổi mục đích sang đất chuyên dùng và đất ở.

Sự nghiệp giáo dục-đào tạo phát triển nhanh về quy mô, chất lượng giáo dục toàn diện ngày càng được chú trọng, cơ sở vật chất được tăng cường. Quy mô giáo dục đào tạo tiếp tục mở rộng theo hướng đa dạng hoá các loại hình trường lớp. Năm học 2005-2006, bậc học mầm non có 14 trường; 16 trường tiểu học, 13 trường trung học cơ sở và 4 trường trung học phổ thông với 31.300 học sinh. Học sinh bậc mầm non tăng 35,3% và trung học phổ thông tăng 29% so với năm học 2000-2001. Trong 5 năm (2000-2005), đã lập thêm 3 trường trung học phổ thông, trong đó có 1 trường trung học phổ thông dân lập. Năm 2002, toàn huyện đã hoàn thành phổ cập tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập trung học cơ sở, đạt mục tiêu Đại hội đề ra. Phong trào giáo dục-đào tạo toàn diện năm 2005 được Sở Giáo dục và đào tạo xếp thứ 3, riêng hệ mầm non đứng đầu toàn tỉnh.

Đội ngũ giáo viên thường xuyên đủ số lượng, đảm bảo chất lượng, trên 95% giáo viên đạt chuẩn, trong đó có 41,5% giáo viên đạt trên chuẩn. Cơ sở vật chất được tăng cường, năm học 2005-2006 tỷ lệ phòng học được xây dựng kiên cố đạt trên 90% tăng trên 20% so với năm 2000; tỷ lệ trường chuẩn quốc gia năm 2005 đạt 58%.

Các trường Đại học và Trường trung học chuyên nghiệp đóng trên địa bàn đã trực tiếp góp phần quan trọng đào tạo nhân lực phục vụ cho sự nghiệp kinh tế-xã hội của huyện. Công tác xã hội hoá giáo dục có nhiều tiến bộ, các trung tâm  giáo dục cộng đồng được thành lập, hoạt động đều khắp ở các xã, thị trấn trong huyện; Hội đồng giáo dục xã, Hội khuyến học từ huyện đến xã, các thôn xóm, dòng họ được thành lập và hoạt động tích cực tạo ra phong trào học tập khá sôi nổi.

Công tác y tế, bảo vệ chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được chú trọng, công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình được duy trì. Màng lưới y tế cơ sở tiếp tục được tăng cường cả về cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ. Đến năm 2005, toàn huyện đã có 7 xã đạt 10 tiêu chuẩn y tế cơ sở, chiếm 63,6%; 100% số trạm có bác sỹ, chất lượng khám chữa bệnh ngày một nâng lên, các chương trình quốc gia về y tế được triển khai và đạt kết quả khá. Tỷ lệ trẻ dưới 1 tuổi được tiêm phòng miễn dịch đạt 98%, làm tốt công tác phòng chống dịch bệnh trên địa bàn, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm từ 30,5% xuống còn 17%. Chính quyền địa phương đã nghiêm túc triển khai thực hiện Pháp lệnh dân số-kế hoạch hoá gia đình theo quyết định số 31/HĐND tỉnh; dịch vụ kế hoạch hóa gia đình tiếp tục được mở rộng theo phương châm xã hội hoá, đáp ứng nhu cầu thực hiện kế hoạch hóa gia đình thuận tiện, hiệu quả góp phần giảm tỷ lệ phát triển dân số. Công tác bảo vệ chăm sóc trẻ em được quan tâm, nhất là trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em bị nhiễm chất độc màu da cam, trẻ em khuyết tật.

Vệ sinh môi trường được các cấp, các ngành và xã hội quan tâm. Hầu hết các hộ dân đã dùng nước giếng khoan có bể lọc. Đến năm 2005, cả huyện có 3 nhà máy cung cấp cho 2.977 hộ (chiếm 11% tổng số hộ) được dùng nước sạch; có 1 công ty và nhiều tổ vệ sinh môi trường được thành lập ở các làng để thu gom rác thải, từng bước khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường ở các làng nghề, những địa điểm kinh doanh dịch vụ và khu vực đông dân cư.

Sự nghiệp văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, phát thanh, truyền thanh được tăng cường phục vụ kịp thời việc tuyên truyền và thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân.

Hoạt động văn hoá văn nghệ quần chúng phát triển, đa dạng hoá các loại hình tổ chức và hoạt động. Năm 2005, toàn huyện có 23 đội văn nghệ, câu lạc bộ dân ca và hàng chục câu lạc bộ thơ được duy trì và hoạt động có hiệu quả. Trên 90% số hộ có phương tiện nghe nhìn đã làm phong phú đời sống tinh thần của nhân dân. Là một huyện giàu truyền thống về lịch sử văn hoá, toàn huyện có 64 di tích lịch sử văn hoá được nhân dân thường xuyên chăm lo tôn tạo, đặc biệt khu di tích Đền Đô thờ các vua đời Lý được nhân dân cả nước ngưỡng mộ. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư được đẩy mạnh. Năm 2005, toàn huyện có 36 làng, khu phố đạt danh hiệu làng, khu phố văn hoá, chiếm 60% số làng, khu phố. Các thiết chế văn hoá ở cơ sở được tăng cường. Công tác quản lý Nhà nước về văn hoá thông tin đi vào nền nếp; đẩy mạnh bài trừ các tệ nạn xã hội, việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội có tiến bộ.

Hoạt động phát thanh, truyền thanh trên địa bàn huyện được tăng cường. Đài phát thanh huyện và cơ sở được đầu tư hệ thống thiết bị mới đáp ứng nhiệm vụ. Thời kỳ này, đài phát thanh huyện và cơ sở luôn quan tâm đổi mới nội dung, chương trình, nâng cao chất lượng hoạt động. Tuyên truyền kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhiệm vụ chính trị ở địa phương.

Phong trào thể dục thể thao phát triển mạnh được tỉnh đánh giá là một trong những huyện, thị dẫn đầu phong trào “Rèn luyện thân thể theo gương bác Hồ vĩ đại”. Hai năm 2001, 2002 được Ủy ban Thể dục thể thao Trung ương tặng cờ đơn vị thi đua xuất sắc nhất. Hàng năm tổ chức nhiều giải thể thao, quan tâm chọn lọc, tập huấn các vận động viên tham gia các giải thể thao cấp tỉnh đạt nhiều thành tích cao.

Lao động việc làm, chính sách xã hội được quan tâm; đời sống nhân dân được cải thiện. Cùng với sự lãnh đạo phát triển kinh tế-xã hội, huyện và cơ sở luôn quan tâm đến công tác xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm và nâng cao mức sống cho nhân dân. Thực hiện tốt các chính sách, chế độ đối với người có công với nước, người tàn tật, người có hoàn cảnh cô đơn. Hàng năm cả huyện trích ngân sách hàng trăm triệu đồng hỗ trợ những hộ khó khăn trong các tháng giáp hạt và nhân các ngày lễ tết…

Huyện đã tranh thủ các nguồn vốn từ chương trình quốc gia giải quyết việc làm và các nguồn vốn khác để cho vay tạo việc làm mới. Cùng với thực hiện chủ trương phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp để tạo ra nhiều việc  làm mới, tăng thu nhập cho người lao động. Các hộ giàu ngày càng tăng, tỷ lệ hộ nghèo giảm, năm 2005 còn 3,74% hộ nghèo theo tiêu chuẩn mới.

Thực hiện tốt phong trào làm nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết. Trong 5 năm (2000-2005), toàn huyện đã vận động ủng hộ xây dựng được 27 ngôi nhà cho các đối tượng chính sách có khó khăn và các hộ nghèo, tặng 2.808 sổ tiết kiệm cho các gia đình chính sách. Tháng 3-2005, huyện được Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tặng danh hiệu huyện xoá xong nhà tranh tre, dột nát.

Công tác an ninh, quốc phòng. Các cấp uỷ Đảng đã quan tâm chỉ đạo các cấp, các ngành làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về nhiệm vụ quốc phòng toàn dân cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Hàng năm chú trọng làm tốt công tác tuyển quân; hoàn thành tốt kế hoạch huấn luyện cho lực lượng thường trực và lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên; chỉ đạo các xã hoàn thành tốt các đợt diễn tập quân sự, thường xuyên duy trì 2 trung đội cơ động trực sẵn sàng chiến đấu. Cơ quan quân sự bước đầu đã chủ động phối hợp tốt với lực lượng công an đảm bảo giữ vững an ninh trật tự ở địa phương; thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội.

Công tác đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Các cấp uỷ đảng đã triển khai và chỉ đạo thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị “về chiến lược an ninh quốc gia trong tình hình mới”, Chỉ thị 21-CT/TW “Về một số công việc cấp bách ở nông thôn hiện nay”, Nghị quyết số 09/CP và chương trình quốc gia phòng chống tội phạm đã đảm bảo ổn định về an ninh chính trị, không để xảy ra đột xuất bất ngờ, các điểm phức tạp về an ninh nông thôn từng bước được giải quyết không để phát triển thành điểm nóng. Đã áp dụng đồng bộ mọi biện pháp nhằm đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Đặc biệt là việc xây dựng và phát huy hiệu quả của mô hình tổ liên gia an toàn trong phòng chống tội phạm.

Công tác xây dựng đảng. Quán triệt quan điểm lấy phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt, văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, Huyện uỷ thường xuyên quan tâm, chỉ đạo xây dựng Đảng mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng, phát huy tính tiền phong gương mẫu của đảng viên.

Trong giai đoạn này, tình hình quốc tế và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp, là một huyện kinh tế phát triển năng động, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hoá diễn ra nhanh đòi hỏi phải chuyển đổi mục đích sử dụng đất với diện tích lớn, công tác giải phóng mặt bằng thu hồi đất diễn ra ở nhiều nơi. Việc quản lý và sử dụng đất đai luôn là vấn đề rất nhạy cảm, một bộ phận cán bộ đảng viên và nhân dân nhận thức chưa đầy đủ về quyền và nghĩa vụ khi được Nhà nước giao quyền sử dụng đất và chính sách đền bù nên đã xuất hiện những điểm bức xúc, tình trạng khiếu kiện vượt cấp đông người kéo dài. Tuy vậy, các cấp uỷ Đảng đã chú trọng công tác vận động, giáo dục, thuyết phục đồng thời thực hiện tốt các chính sách kinh tế ưu đãi, động viên của Nhà nước. Mặc dù trên địa bàn có những thời điểm nóng bức xúc của một bộ phận nhân dân song đã được giải quyết kịp thời nên đã lấy lại được niềm tin của quần chúng vào sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền.

Các cấp uỷ Đảng đã coi trọng việc giáo dục nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nghiên cứu quán triệt, học tập các chỉ thị, nghị quyết, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước và xây dựng kế hoạch thực hiệnh. Luôn quan tâm định hướng tư tưởng, kiểm tra nắm bắt tình hình tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân để có biện pháp giải quyết kịp thời. Làm tốt công tác tuyên truyền tổ chức các ngày kỷ niệm góp phần định hướng công tác tư tưởng và giáo dục truyền thống trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Công tác biên soạn lịch sử Đảng được các cấp uỷ chú trọng. Đảng bộ huyện và 7 xã, thị trấn đã biên soạn và xuất bản lịch sử Đảng bộ.

Công tác bồi dưỡng lý luận chính trị, nghiệp vụ được quan tâm, trong nhiệm kỳ qua đã tổ chức được 14 lớp bồi dưỡng đối tượng kết nạp Đảng, 10 lớp bồi dưỡng đảng viên mới, 3 lớp sơ cấp, 2 lớp trung cấp lý luận chính trị và nhiều lớp bồi dưỡng cán bộ cấp uỷ cơ sở, bồi dưỡng chuyên đề cho cán bộ các đoàn thể… góp phần nâng cao trình độ lý luận chính trị và chuyên môn cho cán bộ, đảng viên.

Công tác tổ chức và đảng viên, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng cơ bản được nâng lên; hệ thống chính trị ở cơ sở được thường xuyên chăm lo củng cố. Các tổ chức Đảng đã chú trọng nâng cao trình độ năng lực, hoạt động thực tiễn cho cán bộ đảng viên. Công tác quản lý đảng viên được tăng cường, nhiều tổ chức Đảng làm tốt việc phân công công tác cho đảng viên. Tổ chức tốt việc đổi thẻ cho đảng viên, giới thiệu đảng viên đang công tác về sinh hoạt nơi cư trú nên chất lượng đảng viên có chuyển biến tiến bộ.

Công tác phát triển đảng được chú trọng. Huyện uỷ đã có chỉ thị và đẩy mạnh công tác phát triển lớp Đảng viên Nguyễn Văn Cừ năm 2002, lớp đảng viên Ngô Gia Tự năm 2003 và lớp đảng viên Hồ Chí Minh năm 2005. Đảng bộ đã kết nạp được 589 đảng viên, vượt 17,8% so với mục tiêu Đại hội đề ra.

Công tác cán bộ được các cấp uỷ Đảng đặc biệt quan tâm với quan điểm “cán bộ là gốc của mọi công việc”. Huyện uỷ thường xuyên chỉ đạo các xã, thị trấn, các cơ quan kiện toàn bổ sung đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Huyện uỷ đã quan tâm công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ. Nhiệm kỳ qua đã cử hàng trăm lượt cán bộ đi đào tạo bồi dưỡng; làm thủ tục đề nghị tặng huy hiệu 40 năm, 50 năm, 60 năm tuổi Đảng, khen thưởng đảng viên, động viên kịp thời các tổ chức Đảng và đảng viên.

Công tác kiểm tra được coi trọng. Các cấp uỷ Đảng, Uỷ ban kiểm tra các cấp đã xây dựng và chỉ đạo thực hiện chương trình kế hoạch kiểm tra toàn khoá và kiểm tra hàng năm. Nội dung kiểm tra tập trung vào việc chấp hành cương lĩnh chính trị, Điều lệ đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các nguyên tắc tổ chức Đảng và thực hiện nhiệm vụ của Đảng viên gắn với việc giải quyết đơn thư tố cáo. Trong 5 năm (2000-2005), Ủy ban Kiểm tra huyện và cơ sở đã thi hành kỷ luật 08 tổ chức Đảng (khiển trách 05, cảnh cáo 03); kỷ luật 170 đảng viên (khiển trách 73, cảnh cáo 66, cách chức 13, khai trừ 18). Công tác kiểm tra đã giúp cấp uỷ phát hiện ngăn chặn và xử lý kịp thời những vi phạm của tổ chức Đảng và đảng viên, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng và đảng viên, củng cố lòng tin của nhân dân đổi với Đảng.

Ban dân vận huyện uỷ, khối dân vận ở cơ sở được kiện toàn và tăng cường; đã xây dựng quy chế hoạt động và tổ chức giao ban nắm tình hình tư tưởng, tình hình thực hiện các chủ trương, chính sách trong Đảng và nhân dân, góp phần cùng với cấp uỷ Đảng, chính quyền giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc trong nhân dân. Tham mưu giúp cấp uỷ trong việc triển khai, kiểm tra, tổng kết việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Đặc biệt việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.

Công tác củng cố chính quyền. Hội đồng nhân dân huyện và cơ sở đã phát huy vai trò cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo luật định, đã xem xét, quyết định nhiều vấn đề quan trọng của địa phương như nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, thu chi ngân sách, an ninh-quốc phòng, văn hoá, giáo dục. Công tác giám sát, kiểm tra đôn đốc các đơn vị, địa phương thực hiện nghị quyết Hội đồng nhân dân có nhiều tiến bộ.

Ủy ban nhân dân các cấp đã bám sát chủ trương của cấp uỷ và nghị quyết của Hội đồng nhân dân, xây dựng kế hoạch chỉ đạo thực hiện có hiệu quả mọi nhiệm vụ của địa phương như chỉ đạo phát triển kinh tế-xã hội. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững tạo thế và lực vững chắc để huyện Từ Sơn phát triển thành thị xã. Ủy ban nhân dân các cấp đã có nhiều cố gắng trong việc cải cách các thủ tục hành chính, cải cách phương pháp làm việc để phục vụ nhân dân được tốt hơn; triển khai cơ chế thực hiện “Một cửa” ở cả 11 xã, thị trấn nhằm phát huy quyền làm chủ trong nhân dân. Công sở các cấp được đầu tư xây mới, tu sửa nâng cấp đảm bảo tốt hơn yêu cầu làm việc của các cơ quan Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể. Phương tiện làm việc được trang bị theo hướng hiện đại, từng bước ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý và điều hành. Đội ngũ cán bộ công chức được tuyển chọn bổ sung ngày càng hoàn thiện, năng lực trách nhiệm và tinh thần phục vụ nhân dân được nâng lên, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Công tác Mặt trận và các đoàn thể quần chúng. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng tích cực vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo an ninh  trật tự ở từng địa phương, chú trọng tham gia xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh.

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng các cấp thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của mình, hướng về địa bàn dân cư bằng nhiều hình thức sinh hoạt nhằm thu hút đoàn viên hội viên tham gia tổ chức. Liên đoàn lao động huyện có 2.796 đoàn viên, thành lập 10 công đoàn ngoài quốc doanh có 646 (bằng 16,2% công nhân lao động tham gia). Đoàn Thanh niên thu hút 17.800 thanh niên đạt 45% thanh niên trong độ tuổi. Hội Phụ nữ có 21.879 hội viên (chiếm 63,3% tổng số phụ nữ). Hội Nông dân có 17.800 hội viên (chiếm 84,2% số nông dân tham gia). Hội Cựu chiến binh có 3.525 hội viên (đạt 89% tổng số cựu chiến binh).

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng phát động nhiều phong trào thi đua thiết thực và được triển khai sâu rộng trong quần chúng nhân dân. Ủy ban Mặt trận có vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”, “Ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo”. Hội Phụ nữ có phong trào “phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”; “phụ nữ làm kinh tế giỏi”. Hội Nông dân có phong trào “hộ nông dân sản xuất kinh doanh giỏi”, chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật; triển khai các chương trình vay vốn… góp phần thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Đoàn thanh niên có phong trào “thanh niên lập nghiệp, tuổi trẻ giữ nước” “thanh niên tình nguyện lao động giỏi, lao động sáng tạo”. Hội Cựu chiến binh phát huy bản chất “bộ đội cụ Hồ”; giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Ngoài ra còn nhiều phong trào như, phong trào đền ơn đáp nghĩa hưởng ứng các cuộc vận động ủng hộ đồng bào bị thiên tai, ngày vì người nghèo, vì nạn nhân chất độc màu da cam, xây dựng nhà “Đại đoàn kết” xoá xong nhà tranh tre, dột nát ở các khu dân cư trong toàn huyện. Những phong trào thi đua đó đã thiết thực đem lại hiệu quả về kinh tế-xã hội và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, chính quyền, tích cực thực hiện công cuộc đổi mới.

Qua 5 năm (2000-2005), Đảng bộ và nhân dân huyện Từ Sơn đã nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, thử thách giành được những thành tựu rất quan trọng. Thực hiện đạt và vượt nhiều mục tiêu chủ yếu do Đại hội lần thứ XIV đề ra; chính trị được đảm bảo ổn định; kinh tế phát triển với nhịp độ cao; hạ tầng kinh tế-xã hội, năng lực sản xuất được tăng cường. Toàn huyện có nhiều thay đổi theo hướng đô thị hoá nông thôn, văn hoá xã hội phát triển, xứng đáng là một trong những trung tâm phát triển kinh tế của tỉnh. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện, dân chủ được phát huy; hệ thống chính trị được củng cố, vai trò lãnh đạo của Đảng được khẳng định, sự điều hành của chính quyền ngày càng có hiệu quả, hoạt động của các đoàn thể nhân dân có nhiều đổi mới tiến bộ.

2. Đại hội Đảng bộ huyện Từ Sơn lần thứ XV, nhiệm kỳ (2005-2010)

Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Bắc Ninh, từ ngày 18 đến ngày 20-10-2005, Đại hội Đảng bộ huyện Từ Sơn lần thứ XV được tổ chức tại Hội trường huyện Từ Sơn. Tham dự đại hội có 195 đại biểu, đại diện cho gần 4.000 đảng viên trong toàn Đảng bộ. Về dự và chỉ đạo Đại hội có đồng chí Nguyễn Thế Thảo, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch Hội đồng Nhân dân tỉnh; đồng chí Nguyễn Sỹ, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh uỷ; đồng chí Nguyễn Công Ngọ, Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Bắc Ninh.

Đại hội thông qua phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ nhiệm kỳ 2006-2010 xác định rõ: “Phát huy truyền thống đoàn kết, năng động sáng tạo, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách. Tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và đảm bảo tính bền vững. Tiếp tục đẩy mạnh phát triển công nghiệp tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng và sức cạnh tranh, phấn đấu trở thành huyện công nghiệp vào năm 2010; phát triển nông nghiệp hàng hoá; khai thác các tiềm năng về thương mại và du lịch. Xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật vững chắc, tạo sự chuyển biến tích cực về văn hoá, xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; đẩy mạnh các biện pháp xoá nghèo, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tăng cường cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng, nâng cao hiệu lực của chính quyền, phát huy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể quần chúng, xây dựng huyện Từ Sơn thành đô thị-thị xã giàu đẹp, văn minh.

Đại hội thông qua Nghị quyết đề ra các mục tiêu chủ yếu đến năm 2010 với những tiêu chí cụ thể: Phấn đấu xây dựng huyện thành thị xã vào năm 2008. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân là 15,6%. Trong đó: nông nghiệp tăng bình quân 4,25% năm; công nghiệp-xây dựng 17,5% năm; dịch vụ 18,0% năm. Cơ cấu kinh tế: Nông-lâm nghiệp 6,5%; Công nghiệp-xây dựng 67,2%; Dịch vụ: 26,3%; thu nhập bình quân đầu người 1.265 USD/năm. Giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp 4.224 tỷ đồng; Giá trị sản xuất nông nghiệp 222,7 tỷ đồng; trồng trọt đạt 45 triệu đồng/ha; Tổng bán lẻ hàng hoá và dịch vụ 1.600 tỷ đồng.

Thu ngân sách 120 tỷ đồng (không kể thu tiền sử dụng đất các dự án đô thị và quỹ đất tạo vốn xây dựng hạ tầng). Kim ngạch xuất khẩu đạt 25 triệu USD; Kim ngạch nhập khẩu đạt 10 triệu USD. Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2010 đạt 40%.

Duy trì phổ cập trung học cơ sở vững chắc, phấn đấu phổ cập trình độ trung học vào năm 2009. 100% phòng học của các bậc học được kiên cố và có phòng chức năng, thư viện; 80-90% số trường đạt chuẩn quốc gia. Có 45 làng, khu phố đạt danh hiệu làng văn hoá cấp tỉnh, cấp huyện. Hoàn thành xây dựng thiết chế văn hoá thôn. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 3,17% xuống còn 1,6%; Giảm tỷ lệ sinh hàng năm 0,3-0,4%0.

Thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng toàn dân, giữ vững an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội. Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, hàng năm có trên 80% tổ chức cơ sở Đảng đạt trong sach vững mạnh. Chú trọng công tác phát triển đảng viên, phấn đấu 5 năm kết nạp từ 600-650 đảng viên mới. Xây dựng chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân vững mạnh.

Để đạt được mục tiêu, nhiệm vụ nêu trên, Đại hội thông qua kế hoạch triển khai chương trình, đề án như sau: 1) Hoàn thành quy hoạch trình cấp có thẩm quyền phê duyệt đề án nâng cấp huyện Từ Sơn thành thị xã; 2) Phát triển các khu dân cư mới đảm bảo tiêu chí đô thị, tích cực chỉnh trang nông thôn; 3) Khai thác và sử dụng các nguồn vốn có hiệu quả, đặc biệt nguồn vốn từ quỹ đất để xây dựng các công trình hạ tầng, phúc lợi công cộng đáp ứng với yêu cầu của một thị xã phát triển; 4) Quy hoạch mở rộng và đầu tư xây dựng các cụm công nghiệp làng nghề, đa nghề; 5) Quy hoạch các trang trại để phát triển chương trình rau sạch, hoa, chăn nuôi tập trung, khai thác đồng trũng; 6) Mở rộng và nâng cấp chợ Giầu, Từ Sơn. Xây dựng khu du lịch Đền Đầm; 7) Hoàn thành xây dựng các công trình văn hoá của huyện như: công viên, sân vận động, nhà văn hoá thể thao, các khu di tích lịch sử. Các thôn đều có nhà văn hoá, điểm vui chơi; 8) Phát huy công xuất các nhà máy nước hiện có và xây dựng thêm nhà máy nước sạch đáp ứng nhu cầu của nhân dân; 9) Quy hoạch, xây dựng bãi rác thải tập trung và lập dự án tiêu thoát nước thải đảm bảo vệ sinh môi trường; 10) Xây dựng khu nghĩa trang nhân dân.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ Huyện Từ Sơn khóa XV, nhiệm kỳ (2005-2010), gồm 33 đồng chí, Ban Thường vụ có 11 đồng chí, gồm các đồng chí Nguyễn Đức Tuất, Nguyễn Đình Thắng, Nguyễn Ngọc Tú, Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Văn Phiên, Trần Thiện Biên, Nguyễn Văn Toán, Nguyễn Đức Minh, Nguyễn Đức Thức, Trần Viết Ninh và  Dương Văn Ban.

Tại kỳ họp thứ nhất của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XV đã bầu đồng chí Nguyễn Đức Tuất giữ chức Bí thư Huyện ủy Từ Sơn; các đồng chí Nguyễn Đình Thắng và Nguyễn Ngọc Tú giữ chức Phó Bí thư Huyện ủy Từ Sơn.       

Phát triển kinh tế. Đến năm 2008, nền kinh tế Từ Sơn đã phát triển mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hóa, tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ tăng nhanh, tỷ trọng nông nghiệp giảm rõ rệt. Sản xuất công nghiệp-xây dựng đã chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu GDP, tăng từ 65,8% (2006) lên 68,5% (năm 2008); ngành thương mại dịch vụ phát triển tốt, tăng dần trong cơ cấu GDP, từ 23,3% (năm 2006) lên 24,3% (năm2008); lĩnh vực sản xuất nông nghiệp có chiều hướng giảm dần tỷ trọng trong cơ cấu GDP từ 11% (năm 2006) xuống còn 7,2% (năm 2008).

Sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp phát triển cả về giá trị và số lượng. Toàn huyện có 10 cụm công nghiệp làng nghề và đa nghề do huyện quản lý, như cụm công nghiệp Đồng Quang, Châu Khê, khu công nghiệp Lỗ Xung, Mả Ông (Đình Bảng); 01 khu công nghiệp tập trung (khu công nghiệp Tiên Sơn) do tỉnh quản lý với tổng diện tích trên 600ha. Khu công nghiệp tập trung có diện tích 377 ha, các cụm công nghiệp có tổng diện tích 232 ha. Đến năm 2008, đã có hơn 500 doanh nghiệp được thuê đất trong các cụm công nghiệp, xây dựng nhà xưởng, lắp đặt máy móc thiết bị, gần 500 cơ sở đã đi vào sản xuất kinh doanh. Nhìn chung khu công nghiệp tập trung, các cụm công nghiệp làng nghề và đa nghề đã xây dựng nhà xưởng và đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh, thu hút trên 10 nghìn lao động trong và ngoài huyện. Giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp của huyện tăng mạnh, năm 2006 giá trị sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp cả huyện đạt 320 tỷ đồng, đến năm 2008 đạt trên 3.300 tỷ đồng (tăng gấp 11 lần so với khi tái lập huyện), bằng 108% kế hoạch, tăng 29,3 so với năm 2007. Việc xây dựng các cụm, khu công nghiệp vừa và nhỏ đã tạo ra bước phát triển đột phá trong công nghiệp, đồng thời là điểm đến hấp dẫn thu hút các doanh nghiệp có công nghệ cao, công nghệ sạch đầu tư vào địa bàn.

Tuy nhiên sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp còn một số tồn tại: công tác giải phòng mặt bằng ở một số khu công nghiệp, cum công nghiệp còn hết sức khó khăn như: Cụm công nghiệp sản xuất Châu Khê mở rộng, cụm công nghiệp làng nghề Đồng Quang; khu công nghiệp, đô thị và dịch vụ VSIP-Phù Chẩn...; việc quản lý sau đầu tư ở cụm công nghiệp còn chậm, tình trạng ô n hiễm môi trường chậm được khắc phục, công nghệ sản xuất các làng nghề nhìn chung còn lạc hậu.

Hoạt động thương mại-dịch vụ khá sôi động và đa dạng. Dịch vụ ngân hàng tín dụng năm 2006 mới có 2 tổ chức: Ngân hàng Nông nghiệp và Công thương hoạt động thì đến năm 2008 đã phát triển lên 11 ngân hàng, tổ chức tín dụng. Năm 2007, các ngân hàng đã cho các tổ chức kinh tế và các hộ kinh doanh trong huyện vay trên 3.000 tỷ đồng. Bên cạnh đó, hàng chục nghìn hộ cá thể sản xuất kinh doanh dịch vụ, hệ thống chợ được các xã quan tâm nâng cấp và làm mới; cửa hàng, siêu thị đầu tiên được hình thành hoạt động có hiệu quả.

Tổng mức hàng hoá bán lẻ và dịch vụ trên địa bàn năm 2008 đạt 1.500 tỷ đồng bằng 105,4 % kế hoạch, hơn so với năm 2006 là 550 tỷ đồng. Hoạt động xuất nhập khẩu phát triển với  tổng giá trị kim ngạch đạt 35,6 triệu USD, bằng 135,3% kế hoạch, hơn so với năm 2006 là 14,9 triệu USD, trong đó xuất khẩu 16,8 triệu USD, đạt 94,3 % so với kế hoạch, tăng 5,6 %; Nhập khẩu 18,8 triệu USD, đạt 221% so với kế hoạch, tăng 135%.

Hoạt động du lịch mở ra nhiều triển vọng mới và là điểm đến hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước, điển hình có khu di tích lịch sử Đền Đô, Chùa Tiêu, đền Đầm và du lịch qua các làng nghề truyền thống.

Sản xuất nông nghiệp thuỷ sản: Tổng giá trị sản xuất nông nghiệp thuỷ sản năm 2008 đạt 159,4 tỷ đồng, đạt 90% kế hoạch, Trong đó giá trị sản xuất trồng trọt 69,9 tỷ đồng, giá trị sản xuất chăn nuôi 73,1 tỷ đồng; giá trị sản xuất thuỷ sản 9,5 tỷ đồng, tăng 4,5% so với năm 2007. Nguyên nhân là do thời tiết bất lợi, dịch bệnh ở các gia súc, gia cầm có nguy cơ tái phát, diện tích sản xuất nông nghiệp giảm, do một phần diện tích chuyển sang sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp.

Năm 2008 tổng diện tích gieo trồng đạt 6885 ha giảm 314 ha so với năm 2007 và giảm 627 ha so với năm 2006. Năng suất lúa đạt 49 tạ/ha, sản lượng 31.634 tấn, giảm 3.083 tấn so với năm 2007 và 2052 tấn so với năm 2006.

Kinh tế trang trại tiếp tục phát triển. Năm 2008 toàn thị xã có 140 trang trại, gồm 58 trang trại chăn nuôi, 29 trang trại nuôi trồng thuỷ sản, 01 trang trại trồng trọt và 52 trang trại tổng hợp VAC, diện tích bình quân một trang trại là 5.000m2; giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ trang trại đạt 18,9 tỷ đồng.

Năm 2008 giá trị sản xuất ngành trồng trọt, chăn nuôi giảm, nguyên nhân do diện tích gieo trồng giảm; dịch bệnh gia súc, gia cầm tái phát, nên bà con nông dân chưa quan tâm chăm sóc, đầu tư thoả đáng cho sản xuất. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp còn chậm do quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất ở một số địa phương chưa ổn định, đất đai manh mún nhỏ lẻ gây khó khăn cho việc đầu tư thâm canh, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, cơ giới hoá vào sản xuất. Thời tiết diễn biến phức tạp, môi trường nhiều nơi bị ô nhiễm ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất nông nghiệp.

Công tác thông tin liên lạc phát triển nhanh, đảm bảo thông suốt, nhanh chóng và kịp thời, tích cực nâng cao hoạt động của Bưu điện thị xã và các điểm Bưu điện văn hoá phường, thường xuyên cải tiến phương thức hoạt động và nâng cao chất lượng dịch vụ. Trong 3 năm (2006-2008) phát triển mới 10.454 máy điện thoại, đưa tổng số máy trên toàn mạng là 26.425 thuê bao năm 2006, lên 33.179 thuê bao năm 2008, bình quân 31 máy/100 dân (không kể điện thoại di động). Năm 2007, tổng thu ngân sách đạt 280 tỷ đồng tăng gấp gần 30 lần so với năm 1999, đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên và xây dựng cơ bản.

Sự nghiệp giáo dục phát triển toàn diện. Quy mô trường lớp được mở rộng cơ bản đáp ứng được nhu cầu học tập của học sinh; số trường đạt chuẩn quốc gia ở 3 bậc học là 28/43 trường, đạt 65,1% (tăng 5 trường so với năm 2006). Ngoài hệ thống trường trung học phổ thông trên địa bàn, huyện còn có 1 trường Đại học, 3 trường Cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và trung tâm dạy nghề đáp ứng việc đào tạo nguồn nhân lực cho địa phương. Chất lượng dạy và học được nâng cao ở các bậc, 100% số giáo viên đạt chuẩn; 9/14 trường mầm non, 14/16 trường tiểu học, 6/14 trường trung học cơ sở đạt chuẩn quốc gia, 90% trường học được xây dựng kiên cố.

Công tác y tế-dân số gia đình và trẻ em có nhiều khởi sắc. 100% xã có trạm xá được xây dựng kiên cố, có bác sĩ. Năm 2008 có 10/11 xã, thị trấn đạt chuẩn Quốc gia.

Hoạt động văn hoá, thông tin-thể dục thể thao được đẩy mạnh. Năm 2008 toàn huyện có 45/61 làng, khu phố được công nhận làng văn hoá, tăng hơn so với năm 2006 là 8 làng. Sự nghiệp văn hóa thể thao được xã hội hóa. Toàn huyện có 54/62 thôn, khu phố có nhà văn hóa được đầu tư tu sửa và xây dựng mới với kinh phí từ 250 triệu đồng đến 2 tỷ đồng/nhà, trong đó 21 nhà văn hóa đạt tiêu chuẩn về diện tích từ 500 m2 trở lên. Toàn huyện có 82% số gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa; 31 làng, khu phố đạt danh hiệu làng văn hóa các cấp. Công tác phát thanh, truyền thanh phát triển vượt bậc, đã ứng dụng hiệu quả kỹ thuật số và mạng Internet với gần 1.000 loa hoạt động thường xuyên trên địa bàn huyện.

Công tác an ninh, quốc phòng. Công tác quốc phòng, quân sự địa phương thường xuyên được xây dựng vững mạnh về mọi mặt, sẵn sàng chiến đấu, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Hàng năm hoàn thành nhiệm vụ tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ, hoàn thành 100% chỉ tiêu trên giao; tổ chức thực hiện tốt diễn tập khu vực phòng thủ của huyện năm 2006; các xã, thị trấn hoàn thành tốt các đợt diễn tập chiến đấu trị an và diễn tập phòng chống lụt bão; kịp thời xử lý mọi tình huống xẩy ra ở cơ sở, thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội.

Công tác đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội có chuyển biến tốt; các điểm phức tạp về an ninh nông thôn từng bước được quan tâm giải quyết; công tác điều tra khám phá các vụ án rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng đạt tỷ lệ cao; những tụ điểm lớn về tệ nạn cờ bạc, mại dâm, ma túy được tập trung triệt xóa, tai nạn giao thông được kiềm chế và giảm 9% so với nhiệm kỳ trước.

Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc được các cấp ủy Đảng, chính quyền quan tâm chỉ đạo và sự phối hợp của các ban, ngành, đoàn thể, sự đồng thuận của các tầng lớp nhân dân đã đạt nhiều kết quả quan trọng, góp phần giữ gìn an ninh trật tự ở địa phương. Các mô hình quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc được duy trì có tác dụng tốt trong công tác phòng chống tội phạm; công tác xây dựng lực lượng công an được quan tâm từ cơ sở đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.

Sau 9 năm (1999-2008) tái lập, mặc dù còn nhiều khó khăn, nhất là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008 đã gây không ít khó khăn cho nền kinh tế Việt Nam nói chung, kinh tế Từ Sơn nói riêng, song dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện, sự cố gắng vươn lên vượt qua khó khăn của nhân dân, huyện Từ Sơn đã có sự phát triển vượt bậc, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp. Thành công nổi bật trong giai đoạn này là huyện Từ Sơn đã chủ động đi tiên phong trong việc tạo nguồn vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi bằng cách tạo quỹ từ nhà, đất dịch vụ để đấu thầu thu hồi nguồn vốn cho phát triển. Nhờ vậy, cùng với nguồn vốn của nhà nước, của nhân dân, nguồn vốn từ dịch vụ nhà, đất đã đem lại một nguồn thu lớn phục vụ đầu tư cho cơ sở hạ tầng, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội của địa phương, làm thay đổi hẳn bộ mặt nông thôn Từ Sơn. Quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ kéo theo đó là cơ sở hạ tầng cũng được xây dựng nhằm đáp ứng với yêu cầu của một đô thị. Nhìn chung, Từ Sơn đã chuẩn bị khá tốt mọi điều kiện để được nâng lên thành thị xã - đô thị phát triển.

H. Thị xã Từ Sơn được thành lập, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng đô thị văn minh (2008 - 2018)

I. THÀNH LẬP THỊ XÃ TỪ SƠN, - THÀNH QUẢ SAU KHI THÀNH LẬP (2008-2010)

Đến năm 2008, sau hơn 20 năm tiến hành đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Từ Sơn đã cơ bản trở thành một đô thị công nghiệp, có tỷ trọng công nghiệp-xây dựng, thương mại, dịch vụ chiếm tỷ lệ cao hơn 80% trong cơ cấu thu nhập quốc dân (GDP). Sự phát triển vượt bậc, mọi mặt của Từ Sơn theo hướng công nghiệp hoá, đô thị hoá đã đặt ra yêu cầu nâng cấp quản lý cao hơn, từ cấp độ nông nghiệp, nông thôn lên cấp độ công nghiệp, đô thị. Chính vì vậy, ngày 24-09-2008, Chính phủ đã ra Nghị định số 01/NĐ-CP, Về việc thành lập thị xã Từ Sơn, thành lập các phường thuộc thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

Theo Nghị định này, thị xã Từ Sơn bao gồm toàn bộ huyện Từ Sơn, với 10 xã và 1 thị trấn, 6.133,23 ha diện tích tự nhiên và 143.843 nhân khẩu. Theo đó, địa giới hành chính thị xã Từ Sơn vẫn như trước đây: phía Đông giáp huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh; phía Tây giáp huyện Đông Anh, TP.Hà Nội; phía Nam giáp huyện Gia Lâm, TP.Hà Nội; phía Bắc giáp huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

Nghị định cũng quy định thành lập 7 phường và 5 xã thuộc thị xã Từ Sơn. Đó là:

1)  Phường Đông Ngàn, trên cơ sở toàn bộ 29,44 ha diện tích tự nhiên và 4.950 nhân khẩu của thị trấn Từ Sơn; bổ sung thêm 25,7ha diện tích tự nhiên và 1.121 nhân khẩu của xã Đồng Nguyên, 39,6ha diện tích tự nhiên và 2.477 nhân khẩu của xã Tân Hồng, 15,1ha diện tích tự nhiên của xã Đình Bảng, 1,2ha diện tích tự nhiên của xã Đồng Quang.

Phường Đông Ngàn có tổng số 111,04ha diện tích tự nhiên và 8.548 nhân khẩu. Địa giới hành chính phường Đông Ngàn phía Đông giáp phường Tân Hồng; phía Tây giáp phường Trang Hạ; phía Nam giáp phường Đình Bảng và phía Bắc giáp phường Đồng Nguyên.

2)  Phường Đồng Kỵ, được tách ra từ xã Đồng Quang, với 334,29ha diện tích tự nhiên và 15.997 nhân khẩu. Địa giới hành chính phường Đồng Kỵ: phía Đông giáp phường Đồng Nguyên, phía Tây giáp xã Phù Khê, phía Nam giáp phường Trang Hạ và phía Bắc giáp xã Hương Mạc.

3)  Phường Trang Hạ, được tách ra từ xã Đồng Quang, trên cơ sở diện tích tự nhiên và nhân khẩu còn lại của xã Đồng Quang (một phần chuyển sang phường Đông Ngàn), gồm có 255,69ha diện tích tự nhiên và 5.510 nhân khẩu. Địa giới hành chính phường Trang Hạ: phía Đông giáp phường Đông Ngàn, phía Tây giáp phường Châu Khê, phía Nam giáp phường Đình Bảng và phía Bắc giáp phường Đồng Kỵ.

4)  Phường Đồng Nguyên, trên cơ sở toàn bộ 688,29ha diện tích tự nhiên và 15.423 nhân khẩu còn lại của xã Đồng Nguyên (một phần chuyển sang phường Đông Ngàn). Địa giới hành chính phường Đồng Nguyên: phía Đông giáp xã Tương Giang, phía Tây giáp phường Đồng Kỵ, phía Nam giáp phường Tân Hồng và phía Bắc giáp xã Tam Sơn.

5)  Phường Tân Hồng, trên cơ sở toàn bộ 491,20ha diện tích tự nhiên và 11.291 nhân khẩu còn lại của xã Tân Hồng (một phần chuyển sang phường Đông Ngàn). Địa giới hành chính phường Tân Hồng: phía Đông giáp huyện Tiên Du, phía Tây giáp phường Đình Bảng, phía Nam giáp xã Phù Chẩn và phía Bắc giáp phường Đông Ngàn.

6)  Phường Đình Bảng, trên cơ sở toàn bộ 830,10ha diện tích tự nhiên và 16.771 nhân khẩu còn lại của xã Đình Bảng (một phần chuyển sang phường Đông Ngàn). Địa giới hành chính phường Đình Bảng: phía Đông giáp phường Tân Hồng, phía Tây giáp huyện Gia Lâm, Hà Nội, phía Nam giáp huyện Gia Lâm, Hà Nội và phía Bắc giáp phường Trang Hạ.

7)  Phường Châu Khê, trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, nhân khẩu của xã Châu Khê, có 497,58ha đất tự nhiên và 17.905 nhân khẩu. Địa giới hành chính phường Châu Khê: phía Đông giáp phường Đình Bảng, phía Tây giáp huyện Gia Lâm, Hà Nội, phía Nam giáp huyện Gia Lâm, Hà Nội và phía Bắc giáp xã Phù Khê.

8)  Xã Tam Sơn; 9) Xã Tương Giang; 10) Xã Hương Mạc; 11) Xã Phù Khê và 12) Xã Phù Chẩn.

Như vậy, sau khi thành lập, thị xã Từ Sơn đã tăng thêm một đơn vị hành chính so với huyện Từ Sơn trước đây, do xã Đồng Quang tách làm hai phường, nên thị xã có 12 đơn vị hành chính trực thuộc. Trong đó, thị xã Từ Sơn có 7 phường, là Đồng Kỵ, Đồng Nguyên, Đình Bảng, Đông Ngàn, Trang Hạ, Tân Hồng, Châu Khê và có 5 xã, là Tam Sơn, Tương Giang, Hương Mạc, Phù Khê, Phù Chẩn.

Sự thành lập thị xã Từ Sơn là một dấu mốc quan trọng đánh dấu sự phát triển vượt bậc của địa phương trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ một vùng quê vốn chủ yếu dựa vào nông nghiệp, sau hơn 20 năm (1986-2008), Từ Sơn đã trở thành một đô thị hiện đại, phát triển. 

Phát triển kinh tế. Sau hơn 2 năm (2008-2010) được nâng lên thành thị xã, kinh tế ở Từ Sơn phát triển khá nhanh và mạnh mẽ. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm tăng 16,2%, vượt mục tiêu nghị quyết Đại hội đề ra, trong đó công nghiệp-xây dựng cơ bản tăng 16,5%; dịch vụ tăng 16,9%, nông nghiệp tăng 2,1%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng công nghiệp-xây dựng cơ bản tăng từ 70,3% năm 2005, lên 74,5%, dịch vụ tăng từ 21,5% lên 21,7%, nông nghiệp giảm từ 8,2% còn 3,8% năm 2010.

Công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp phát triển nhanh theo hướng hiện đại và bền vững. Giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp năm 2010 ước đạt 4.752 tỷ đồng, tăng 2,7 lần so với năm 2005, tốc độ tăng bình quân hàng năm là 21,7%. Trong đó công nghiệp quốc doanh đạt 105 tỷ đồng, giảm 14,8%, công nghiệp ngoài quốc doanh đạt 4.520 tỷ đồng, tăng bình quân 24,1% và chiếm 95% tổng giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn; công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 125 tỷ đồng, tăng bình quân 45%. Các ngành hàng thế mạnh vẫn được giữ vững và phát triển, như giá trị sản xuất sắt thép năm 2010 đạt 1.466 tỷ đồng, tăng 2,3 lần so với năm 2005; giá trị sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ đạt 1.495 tỷ đồng, tăng 3 lần so với năm 2005. Đến năm 2010, trên địa bàn thị xã có 11 khu, cụm công nghiệp, tăng 5 khu, cụm công nghiệp so với năm 2005; có 531 doanh nghiệp thuê đất trong các khu, cụm công nghiệp, trong đó 482 cơ sở đã đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh, thu hút trên 11.000 lao động.

Nông nghiệp của thị xã chuyển dịch theo hướng tích cực, hiệu quả, sản xuất hàng hóa được nâng cao. Tỷ trọng ngành trồng trọt giảm từ 51% năm 2005 còn 42,3% năm 2010; chăn nuôi tăng từ 45,5% lên 53,8% và dịch vụ nông nghiệp giảm từ 4,6% năm 2005 xuống 3,9% năm 2010. Từ Sơn đã hình thành một số vùng cây trồng hàng hóa có giá trị kinh tế cao, như vùng sản xuất hoa, rau, vùng sản xuất lúa nếp... Năng suất lúa tăng từ 49,8 tạ/ha/vụ năm 2005 lên 55,2 tạ/ha/vụ năm 2010, giá trị trồng trọt đạt 76,9 triệu đồng/ha canh tác, tăng 27,1 triệu đồng so với năm 2005 và tăng 65% so với mục tiêu Đại hội; mô hình trang trại được duy trì và phát triển, đến năm 2010, thị xã có 220 trang trại, tăng 17 trang trại so với năm 2005. Giá trị ngành chăn nuôi tăng từ 65,12 tỷ đồng năm 2005 và năm 2010 đạt 93,2 tỷ đồng, tăng 43,1%. Năm 2010 tổng diện tích nuôi trồng thủy sản ước đạt 229,41ha, giá trị đạt 9,3 tỷ đồng.

Thương mại, dịch vụ phát triển mạnh. Tổng mức hàng hóa bán lẻ và dịch vụ của Từ Sơn năm 2010 đạt 3.333,7 tỷ đồng, tăng 3,3 lần so với năm 2005. Xuất khẩu đạt 77,2 triệu USD, tăng 6,4 lần so với năm 2005; nhập khẩu đạt 120,7 triệu USD, tăng 10,7 lần so với năm 2005. Một số loại hình dịch vụ tăng trưởng cao, như vận chuyển hàng hóa và khách hàng, thương mại khách sạn, tài chính... Bưu chính viễn thông phát triển mạnh, số máy thuê bao cố định hàng năm tăng 13,7%, đạt bình quân 33 máy/100 dân (chưa kể điện thoại di động), tổng thuê bao Internet đạt mật độ 3,5 thuê bao/100 dân.

Hệ thống ngân hàng mở rộng và phát triển, trên địa bàn có 10 ngân hàng thương mại và 1 ngân hàng chính sách xã hội, tăng 6 ngân hàng so với năm 2005. Tổng thu qua ngân hàng năm 2010 đạt 6.173,9 tỷ đồng, tăng 3,2 lần so với năm 2005; tổng chi qua ngân hàng đạt 6.251,7 tỷ đồng, tăng 3,3 lần so với năm 2005.

Ngành du lịch cũng có những chuyển biến tích cực. Du lịch làng nghề, lễ hội truyền thống, cùng với việc nâng cấp mở rộng khu du lịch Đền Đô và các khu di tích lịch sử văn hóa, hằng năm đã thu hút hàng vạn lượt khách đến thăm quan, học tập.

Quy hoạch và đầu tư phát triển được đẩy mạnh, bộ mặt đô thị và nông thôn của Từ Sơn đổi mới rõ nét. Công tác đầu tư xây dựng đã dành ưu tiên cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, đô thị và hạ tầng nông thôn, với tổng mức đầu tư 1.671,2 tỷ đồng. Các tuyến đường trung tâm thị xã được nâng cấp, như tỉnh lộ 295B, đường 295 đi cầu Nét, nút giao giữa tỉnh lộ 277 đi quốc lộ 1A, đường Đền Đô-Đền Đầm, đường Cầu Tháp-Châu Khê..., Các công trình trọng điếm khác, như khu lưu niệm đồng chí Ngô Gia Tự, công viên Lý Thái Tổ và hạ tầng các khu đô thị đã được xây dựng, nâng cấp, tạo điều kiện thuận lợi cho các đô thị mở rộng, phát triển.

Công tác quản lý và sử dụng đất đai được quan tâm. Đến nay, Thị xã đã lập quy hoạch sử dụng đất thời kỳ 2007-2015, cho 11/12 xã, phường. Công tác thu hồi đất, giải phóng mặt bằng để phát triển công nghiệp, đô thị, dịch vụ, được thực hiện cơ bản đúng với quy định của pháp luật. Thị xã đã giải phóng mặt bằng với tổng số 679,03 ha, trong đó sử dụng làm đất ở, đất dân cư, dịch vụ là 165,8 ha; đất làm khu, cụm công nghiệp là 770,27 ha và đất dành cho mục đích khác là 171,79 ha.

Công tác quản lý về môi trường được chú trọng. Việc tuyên truyền, kiểm tra thực hiện Luật bảo vệ môi trường tại các khu, cụm công nghiệp, làng nghề được tiến hành thường xuyên hơn. Các dự án bảo vệ môi trường được xây dựng và đang tích cực triển khai thực hiện, như dự án nhà máy xử lý nước thải tại Châu Khê, nhà máy xử lý rác thải tại Hương Mạc, hệ thống thoát nước mặt trung tâm thị xã; đề án bảo vệ môi trường ở các làng nghề, khu, cụm công nghiệp.

Công tác chỉnh trang đô thị được quan tâm. Từ năm 2009-2010, thị xã đã đầu tư xây dựng hệ thống chiếu sáng ở trung tâm thị xã và ở các xã, phường, với 23,7 km đường dây, 706 cột đèn, 1.208 bóng cao áp; trồng được 65.000m2 cây đường viền, thảm cỏ, 15.000 cây cảnh, cây bóng mát... đã làm cho bộ mặt đô thị mỗi ngày được sáng-xanh-sạch-đẹp hơn.

Khai thác tốt các nguồn lực tài chính để đáp ứng cơ bản cho các nhu cầu phát nền kinh tế-xã hội, được thị xã dành sự quan tâm đáng kể. Thị xã đã tích cực khai thác quỹ đất tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng, tổng thu được số tiền trên 1.200 tỷ đồng. Năm 2010 thu ngân sách của thị xã đạt 422 tỷ đồng, tăng hơn 3 lần so với năm 2005. Chi ngân sách đã đảm bảo chi thường xuyên và tập trung ưu tiên chi cho các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo an ninh-quốc phòng địa phương.

Sự nghiệp giáo dục-đào tạo phát triển cả về số lượng và chất lượng, cơ sở vật chất tiếp tục được tăng cường. Năm 2010, thị xã có 48 trường, từ trường Mầm non đến trung học cơ sở, với 796 lớp, 26.613 học sinh, tăng 38 lớp và 697 học sinh so năm 2008; 04 trường trung học phổ thông có 120 lớp, 5.243 học sinh, tăng 09 lớp và giảm 477 học sinh so với năm 2008. Tỷ lệ kiên cố hóa trường Mầm non đạt 81%, Tiểu học và trung học cơ sở đạt 98%, tăng 11% so với năm 2008, bằng 98% so với mục tiêu Đại hội; tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia là 72,3%, tăng 23% so với năm 2008.

Chất lượng giáo dục đại trà ổn định, ngày càng vững chắc, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn ngày càng cao. Hoạt động của các Trung tâm học tập cộng đồng đã đi vào nền nếp; các hoạt động khuyến học, khuyến tài tiếp tục được quan tâm, dòng họ khuyến học, gia đình hiếu học được phát huy, tất cả đã góp phần khích lệ, động viên tinh thần học tập của học sinh.

Công tác chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân có sự chuyển biến tích cực; công tác dân số, gia đình, trẻ em được duy trì. Mạng lưới y tế cơ sở được tăng cường cả về cơ sở vất chất và đội ngũ cán bộ, cả 12/12 xã, phường đạt chuẩn Quốc gia về y tế, hoàn thành mục tiêu của Đại hội XV đề ra. Chất lượng khám chữa bệnh ngày càng được nâng lên, các chương trình quốc gia về y tế được triển khai đạt yêu cầu. Đến năm 2010, toàn thị xã có 14 cơ sở khám chữa bệnh, với 139 giường bệnh; cán bộ ngành y có 228 người, trong đó 74 người có trình độ đại học và trên đại học. Công tác chăm sóc, giáo dục trẻ em thường xuyên được quan tâm, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm còn 12,6%. Công tác truyền thông dân số-kế hoạch hóa gia đình được duy trì, song năm 2010, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,47%, đã không đạt mục tiêu Đại hội đề ra.

Hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục thể thao phát triển khá tốt. Thị xã có 64 di tích lịch sử văn hóa, 49 lễ hội truyền thống và luôn được các địa phương và nhân dân tôn tạo, giữ gìn. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư được đẩy mạnh. Năm 2010, có 50/81 thôn, làng, khu phố có nhà văn hóa, trong đó 27 nhà văn hóa đạt chuẩn. Hoạt động phát thanh, truyền thanh được đẩy mạnh, với trên 1.000 loa truyền thanh phát thường xuyên; trang Website của Đài phát thanh thị xã được duy trì và có hiệu quả. Phong trào thể dục, thể thao quần chúng phát triển mạnh ở các địa phương; các trung tâm văn hóa, sân vận động được quy hoạch, hàng năm tổ chức nhiều giải thể thao và thị xã thường đạt thành tích cao trong thi đấu cấp tỉnh.

Giải quyết việc làm và các vấn đề an sinh xã hội được quan tâm, đời sống nhân dân ngày càng nâng cao. Các phong trào đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng, gia đình thương bệnh binh, liệt sĩ, gia đình người có công với cánh mạng, chăm sóc người già cô đơn, trẻ mồ côi, người khuyết tật được đẩy mạnh; công tác giảm nghèo được quan tâm, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 1,64%. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, GDP năm 2010 đạt 2.800 USD/người, vượt mục tiêu Đại hội. Công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm được quan tâm. Trong 3 năm (2008-2010) có 29.000 lao động được đào tạo, góp phần quan trọng vào việc chuyển đổi cơ cấu lao động, giải quyết việc làm, tạo thêm nhiều nghề mới.

Công tác an ninh, quốc phòng của thị xã được xây dựng vững mạnh về mọi mặt, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Hàng năm công tác này đã hoàn thành tốt việc tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ, hoàn thành 100% chỉ tiêu; đã tổ chức tốt các cuộc diễn tập khu vực phòng thủ của thị xã; các xã, phường đều hoàn thành tốt các đợt diễn tập chiến đấu trị an, phòng chống lụt bão, cũng như kịp thời xử lý các tình huống xảy ra và đảm bảo tốt chính sách hậu phương quân đội.

Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc được các cấp ủy Đảng, chính quyền quan tâm nên có chuyển biến tích cực, đảm bảo vững chắc an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Công tác xây dựng Đảng. Thị ủy và các cấp ủy cơ sở thường xuyên quan tâm chỉ đạo xây dựng Đảng mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, phát huy tính tiền phong gương mẫu của đảng viên. Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng đã bám sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị. Thị uỷ thường xuyên coi trọng đổi mới nội dung, phương pháp quán triệt, học tập Nghị quyết của Đảng; nâng cao chất lượng học tập, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; giữ gìn và phát huy truyền thống văn hoá, lịch sử của quê hương.

Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" được thị uỷ chỉ đạo cụ thể và tổ chức thực hiện sâu rộng ở các cấp, các ngành, với nhiều hình thức phong phú. Cuộc vận động đã trở thành các đợt học tập chính trị sâu rộng, góp phần làm chuyển biến về nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên và quần chúng. Ngoài ra, thông qua hội nghị giao ban tư tưởng, thông tin thời sự hằng tháng, Thị ủy đã kịp thời nắm bắt, định hướng tư tưởng và dư luận xã hội cho cán bộ, đảng viên.

Trung tâm bồi dưỡng chính trị được đầu tư xây dựng mới. Trung tâm rất coi trọng mặt chất lượng giảng dạy, học tập và đã tổ chức được 19 lớp bồi dưỡng đối tượng kết nạp Đảng, gồm 325 quần chúng; 11 lớp bồi dưỡng cho 611 đảng viên mới; 4 lớp sơ cấp, 2 lớp trung cấp lý luận chính trị, với 297 học viên; 120 lớp bồi dưỡng kiến thức chuyên đề cho cấp ủy cơ sở, cán bộ làm công tác Mặt trận, các đoàn thể và cán bộ, công chức, viên chức..., góp phần nâng cao nhận thức lý luận, kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, đảng viên của Đảng bộ thị xã.

Công tác tổ chức và đảng viên đã đạt nhiều kết quả quan trọng. Thị uỷ đã dành nỗ lực cho việc đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng đảng viên. Các cấp ủy đảng tích cực triển khai giải pháp đồng bộ về xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh, khắc phục những yếu kém, bất cập. Công tác phát triển đảng trong nhiệm kỳ đã kết nạp 621 đảng viên mới, vượt chỉ tiêu Đại hội; số lượng đảng viên được kết nạp trong độ tuổi thanh niên, người trực tiếp sản xuất tăng cao. Công tác quản lý, phân công nhiệm vụ cho đảng viên ngày càng có nền nếp và cụ thể.

Công tác cán bộ có những chuyển biến tích cực và hiệu quả. Thị ủy, các cấp ủy cơ sở đã kịp thời củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ đủ số lượng, coi trọng chất lượng, chú trọng tới cán bộ trẻ, cán bộ nữ. Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, đánh giá, quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ được thực hiện đúng quy định. Trong nhiệm kỳ, thị uỷ đã cử 281 lượt cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ. Thị uỷ đã thực hiện đầy đủ chế độ, chính sách cho cán bộ lão thành cách mạng, cán bộ tiền khởi nghĩa, cũng như kịp thời đề nghị Tỉnh ủy tặng huy hiệu năm tuổi Đảng.

Công tác kiểm tra, kỷ luật được cấp ủy các cấp quan tâm chỉ đạo. Ủy ban Kiểm tra các cấp xây dựng và thực hiện kế hoạch kiểm tra, giám sát toàn khóa và hàng năm; xây dựng quy chế phối hợp khá hiệu quả giữa Ủy ban Kiểm tra Thị ủy với các cơ quan Thanh tra, Công an, Tòa án, Viện kiểm sát trong công tác giám sát. Nhiệm kỳ này, Ủy ban kiểm tra Thị ủy và cơ sở đã tiến hành xem xét, xử lý kỷ luật công minh, chính xác, kịp thời đối với 147 đảng viên và 05 tổ chức Đảng vi phạm, đảm bảo giữ vững nguyên tắc, kỷ cương, kỷ luật Đảng, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng và đảng viên, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng.

Công tác dân vận có chuyển biến rõ nét hơn. Các cấp ủy Đảng đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, kết luận về những vấn đề liên quan đến công tác dân vận. Các chương trình công tác dân vận đều được triển khai đến cơ sở và đã thành lập được 82 tổ dân vận ở khu dân cư, xây dựng được quy chế hoạt động; các khu dân cư đã xây dựng mô hình dân vận khéo, với 40 mô hình về phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo; 20 mô hình về giữ vừng an ninh, 15 mô hình xây dựng khu dân cư toàn diện, 7 mô hình về đẩy mạnh phong trào hoạt động từ thiện, khuyến học. Việc triển khai mô hình dân vận khéo giúp các cấp ủy, chính quyền giải quyết các vấn đề bức xúc ở địa phương, vận động nhân dân tích cực hiện thực hoá đường lối, chính sách, pháp luật, cũng như thực hiện quy chế dân chủ cơ sở.

Công tác củng cố chính quyền. Hoạt động của hội đồng nhân dân thị xã Từ Sơn ngày càng được nâng cao, đi vào nền nếp, có chất lượng, bám sát tình hình thực tế địa phương để kịp thời đưa ra nghị quyết quan trọng. Công tác kiểm tra, giám sát của hội đồng nhân dân các cấp ngày càng được coi trọng, đi vào thực chất hơn, đồng thời với việc tính hình thức giảm hẳn. Nội dung giám sát tập trung vào vấn đề mà cử tri quan tâm trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ kinh tế-xã hội, thi hành luật pháp ở địa phương. Hội đồng nhân dân còn tổ chức chất vấn các đại biểu, lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Hội đồng bầu ra và tăng cường công tác tiếp xúc cử tri.

Ủy ban nhân dân thị xã Từ Sơn được củng cố với việc đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính. Theo đó, hoạt động của Ủy ban nhân dân các cấp có nhiều tiến bộ; cải cách hành chính được quan tâm; các phòng, ban, đơn vị, các phường mới thành lập được sắp xếp, kiện toàn theo đúng quy định của Nhà nước; hoàn thành việc quản lý chất lượng ISO 9001 trong giải quyết hành chính ở nhiều lĩnh vực; bộ phận ''Một cửa liên thông hiện đại'' được thành lập; công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức được chú trọng, nề nếp làm việc, kỷ cương, kỷ luật, ý thức trách nhiệm của cán bộ, công chức và hiệu lực, hiệu quả của chính quyền được nâng lên rõ rệt.

Công tác Mặt trận và các đoàn thể quần chúng. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động theo hướng thiết thực, hướng về cơ sở. Mặt trận coi trọng nhiệm vụ vận động các tầng lớp nhân dân thị xã chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.

Mặt trận Tổ quốc các cấp đã phát động nhiều phong trào thi đua và được triển khai sâu rộng trong quần chúng nhân dân. Đó là, cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư", "Ngày vì người nghèo". Mặt trận Tổ quốc thị xã Từ Sơn còn vận động nhân dân ủng hộ các loại quỹ, xây dựng nhà tình nghĩa, nhà Đại đoàn kết, hỗ trợ hộ nghèo và học sinh nghèo vượt khó, người già cô đơn, tàn tật, với tổng số tiền trên 2 tỷ đồng. Mặt trận cấp xã, phường hỗ trợ sửa chữa, làm mới 49 ngôi nhà tình nghĩa, với số tiền 336 triệu đồng. Mặt trận đã phối hợp triển khai có hiệu quả các đề án, các mô hình do Mặt trận chủ trì. Công tác hiệp thượng trong bầu cử, lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh chủ chốt do hội đồng nhân dân cấp xã bầu và trưởng thôn đã được thực hiện nghiêm túc.

Đoàn thanh niên thường xuyên quan tâm công tác giáo dục chính trị tư tưởng, truyền thống, đạo đức lối sống, giáo dục pháp luật trong thanh, thiếu nhi. Đoàn thanh niên thu hút được đông đảo đoàn viên, thanh, thiếu nhi tham gia các phong trào, các cuộc vận động do đoàn phát động. Đó là: "Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác", "Thi đua tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc", "05 xung kích phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ quốc", "4 đồng hành với thanh niên lập thân lập nghiệp". Với cuộc vận động "Đoàn viên thanh niên phấn đấu trở thành đảng viên", Đoàn thanh niên đã bồi dưỡng và giới thiệu cho Đảng xem xét kết nạp 370 đoàn viên. Hội Liên hiệp thanh niên Từ Sơn các cấp được kiện toàn, củng cố. Công tác Đội và phong trào thiếu nhi tiếp tục được quan tâm, thực hiện đạt nhiều kết quả có ý nghĩa thiết thực.

Hội liên hiệp phụ nữ Từ Sơn có nhiều chuyển biến tích cực, bám sát các chỉ tiêu, nội dung chương trình hàng năm để xây dựng kế hoạch cụ thể; tổ chức đăng ký, bình xét hội viên thực hiện phong trào thi đua "phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc", "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Hội tăng cường chỉ đạo theo chuyên đề và chỉ đạo điểm, xây dựng nhiều mô hình tập hợp, thu hút hội viên. Hội phụ nữ thị xã có 26.728 hội viên (chiếm 77,2% phụ nữ trong độ tuổi). Một số hoạt động Hội đi vào chiều sâu và có hiệu quả cao, như hoạt động giúp phụ nữ nghèo, xây dựng nhà tình thương, chủ động lồng ghép, phối hợp các hoạt động nhằm phát triển toàn diện phụ nữ. Theo đó, Hội phụ nữ ngày càng được củng cố vững mạnh.

Hội nông dân thị xã có nhiều hoạt động thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội. Hội vận động nông dân chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển trang trại, GPMB mở rộng phát triển cống nghiệp, đô thị... Các hoạt động tư vấn, trợ giúp nông dân trong sản xuất kinh doanh, mở mang dịch vụ nông nghiệp, cùng với phát động các phong trào thi đua đã giúp các tầng lớp nông dân thị xã có sự đổi thay đáng kể, góp phần tăng số hộ nông dân sản xuất kinh doanh giỏi hàng năm và cơ bản xóa được số hộ hội viên nghèo. Số lượng nông dân tham gia Hội ngày càng tăng, đã kết nạp được 4.055 hội viên mới, đưa tổng số hội viên lên tới 21.842 người.

Hội Cựu chiến binh từ thị xã đến cơ sở luôn giữ vững và phát huy bản chất truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ", làm tốt công tác giáo dục chính trị-tư tưởng cho hội viên. Hội phối hợp tham gia giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ và phát huy tiềm năng của các thế hệ cựu chiến binh. Hội động viên, tạo điều kiện cho hội viên thực hiện tốt phong trào xóa đói giảm nghèo, làm giầu chính đáng, số hộ cựu chiến binh khá, giàu tăng nhanh. Hội thực hiện tốt công tác tình nghĩa, xây dựng quỹ "Nghĩa tình đồng đội"; chế độ, chính sách của cựu chiến binh được triển khai kịp thời. Hội coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ và quan tâm phát triển hội viên, trong 5 năm Hội kết nạp được 862 hội viên, đạt tỷ lệ 88,5% cựu chiến binh tham gia tổ chức Hội.

Công đoàn các cấp hoạt động có hiệu quả, thể hiện qua các phong trào thi đua yêu nước thu hút ngày càng đông công nhân tham gia Hội. Hội làm tốt chức năng chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của người lao động; tuyên truyền giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên, thực hiện nghiêm chuẩn mực đạo đức "5 xây, 5 chống" trong công nhân, viên chức, người lao động, phát triển đoàn viên và tổ chức công đoàn khu vực ngoài quốc doanh. Trong nhiệm kỳ, thị xã có 70 công đoàn cơ sở, với 3.868 đoàn viên, tăng 32 tổ chức và 376 đoàn viên, so với năm 2005.

Sau 2 năm (2008-2010), thời gian chưa nhiều kể từ khi Từ Sơn được nâng lên thành Thị xã, Đảng bộ và nhân dân thị xã Từ Sơn đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Kinh tế-xã hội phát triển nhanh, đời sống nhân dân được cải thiện rõ nét, hệ thống chính trị các cấp được củng cố, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội về cơ bản ổn định. Các mục tiêu phát triển cụ thể của Đại hội đề ra nhìn chung đều đạt và vượt. Tuy nhiên, yêu cầu phát triển mới của thị xã vẫn đặt ra không ít vấn đề đối với công tác lãnh đạo, quản lý xã hội của Đảng bộ thị xã nói riêng và của toàn hệ thống chính trị nói chung. Đảng bộ thị xã do đó cần nhận thức, đánh giá sâu sắc về trách nhiệm lãnh đạo xã hội của mình, rút ra những điểm mạnh, yếu để tiếp tục vươn lên. Mặt khác, Đảng bộ cũng cần đánh giá đúng đắn về các nhân tố khách quan, từ đó đề ra chủ trương vi mô và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật phù hợp với địa bàn. 

II. ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ THỊ XÃ TỪ SƠN LẦN THỨ XVI, NHIỆM KỲ (2010-2015)

1. Đại hội Đảng bộ thị xã Từ Sơn lần thứ XVI

Dưới sự chỉ đạo của tỉnh ủy Bắc Ninh, từ ngày 27 đến ngày 29-7-2010, Đại hội Đảng bộ thị xã Từ Sơn lần thứ XVI được tổ chức tại Hội trường Thị xã Từ Sơn. Tham dự đại hội có 197 đại biểu đại diện cho trên 4.000 đảng viên của Đảng bộ. Đại hội thảo luận góp ý vào dự thảo văn kiện trình Đại hội XI của Đảng và văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII. Đại hội đề ra phương hướng cho nhiệm kỳ 2010-2015, là: “Tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bền vững, đẩy mạnh phát triển đô thị theo hướng hiện đại, văn minh đi đôi với công tác bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng và sức cạnh tranh trên thị trường; phát triển nông nghiệp đô thị; phát triển và khai thác tốt các tiềm năng về thương mại, du lịch. Xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật vững chắc, nâng cao chất lượng các hoạt động văn xã, thực hiện tốt công tác an sinh xã hội; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng, nâng cao chất lượng đảng viên; tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của chỉnh quyền; củng cố niềm tin của nhân dân tạo sức mạnh tổng hợp, xây dựng thị xã Từ Sơn giàu đẹp, văn minh và phấn đấu xây dựng thị xã trở thành đô thị loại III (thành phố) vào năm 2020”.

Đại hội xác định rõ các mục tiêu cụ thể đến năm 2015. Đó là: tăng trưởng kinh tế từ 16% đến 17%, trong đó: công nghiệp-xây dựng tăng 17,3% năm; dịch vụ tăng 18% năm; nông, lâm, ngư nghiệp giảm bình quân 0,3% năm. Cơ cấu kinh tế: công nghiệp-xây dựng: 69,7%; dịch vụ: 28,1%; nông-lâm nghiệp: 2,2%.

Giá trị sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp: 10.530 tỷ đồng; nông nghiệp: 141,3 tỷ đồng; trồng trọt đạt 97 triệu đồng/ha canh tác; Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ 7.022 tỷ đồng. Thu ngân sách trên địa bàn đạt 550 tỷ đồng, tăng bình quân trên 20%/năm (không kể thu tiền sử dụng đất tạo vốn xây dựng hạ tầng); xuất khẩu 159,1 triệu USD; nhập khẩu 191,7 triệu USD. Tỷ lệ lao động đào tạo 60%.

Về giáo dục, 100% phòng học và các phòng chức năng được kiên cố hóa; trên 95% số trường đạt chuẩn Quốc gia.

Về văn hóa, xã hội 70% làng, khu phố đạt danh hiệu làng văn hóa; 95% số công sở đạt công sở văn hóa; 70% làng, khu phố có nhà văn hóa đạt chuẩn Quốc gia. Tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống dưới 1%; Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 1,22%; Mức giảm sinh hàng năm 0,2‰/năm; Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng giảm xuống dưới 10%; 100% các xã đạt tiêu chí xây dựng nông thôn mới; GDP bình quân đầu người đạt 6.000 USD.

Thị xã sẽ thực hiện tốt nhiệm vụ quân sự quốc phòng; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; xây dựng chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân vững mạnh, xuất sắc; xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã khóa XVI, nhiệm kỳ (2010-2015), gồm 37 đồng chí, Ban Thường vụ 11 người, gồm các đồng chí: Nguyễn Quốc Chung, Nguyễn Ngọc Tú, Nguyễn Văn Quỹ, Trần Thiện Biên, Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Văn Toán, Trần Viết Ninh, Nguyễn Đức Thức, Trần Văn Tiến, Nguyễn Thị Vân Hà và Ngô Minh Châu. Đại hội bầu 22 đồng chí đại biểu chính thức, 1 đại biểu dự khuyết tham dự Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XVIII.

Tại kỳ họp lần thứ nhất, Ban Chấp hành Thị ủy đã bầu đồng chí Nguyễn Quốc Chung giữ chức Bí thư Thị ủy Từ Sơn; đồng chí Nguyễn Ngọc Tú và đồng chỉ Nguyễn Văn Quỹ giữ chức Phó Bí thư Thị ủy Từ Sơn.

2. Những thành tựu đạt được

Phát triển kinh tế. Trong 5 năm (2010-2015), thị xã Từ Sơn được đà phát triển năng động và toàn diện; vượt mức nhiều chỉ tiêu đề ra. Thị xã là đơn vị phát triển dẫn đầu của tỉnh, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá; tổng sản phẩm trên địa bàn tăng bình quân 16%; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá, khi tỷ trọng công nghiệp-xây dựng cơ bản là  77,9%; dịch vụ-thương mại 20,1%; nông nghiệp giảm còn 2%. Tổng đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách Trung ương và địa phương là 1.252,7 tỷ đồng. Tổng thu ngân sách hàng năm đạt khoảng 700 tỷ đồng, trong đó thu từ tiền đất 200 tỷ đồng, đạt 125%, tăng 86,6% so với năm 2010. Thu nhập đầu người đạt 6.000 USD/người/năm, tăng 2,1 lần so với năm 2010.

Tỷ lệ kiên cố hóa phòng, lớp học đạt trên 96%, đạt 100% mục tiêu Đại hội; có 98% số trường đạt chuẩn Quốc gia. Giải quyết việc làm mới hàng năm cho hơn 3.000 lao động, lao động qua đào tạo nghề đạt 60%. Năm 2015 có 43 nhà văn hóa đạt chuẩn quốc gia, 90% làng, khu phố đạt danh hiệu văn hóa; 86% đạt công sở văn hóa. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,55%; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng ước 9,2%. Trên 80% dân số đô thị được sử dụng nước sạch; 100% dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh.

Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tiếp tục phát triển theo hướng hiện đại; quy mô, năng lực sản xuất, sản phẩm một số ngành được nâng lên. Đến năm 2015, trên địa bàn thị xã có 10 cụm công nghiệp làng nghề và đa nghề, tổng diện tích 156,78ha, với 579 doanh nghiệp đang hoạt động và 9 khu thương mại dịch vụ, làng nghề diện tích 54ha. Trong đó nổi bật là cụm công nghiệp sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ hoạt động sôi động ở thị trường trong nước và quốc tế.

Thời kỳ này, do ảnh hưởng của lạm phát, hơn nữa, là vấn đề phức tạp ở Biển Đông liên quan đến Trung Quốc, đã tác động trực tiếp đến việc kinh doanh, sản xuất mặt hàng đồ gỗ mỹ nghệ-mặt hàng chủ lực của kinh tế làng nghề. Song với truyền thống yêu nghề, năng động trong sản xuất, kinh doanh, các chủ doanh nghiệp và cơ sở sản xuất khu vực làng nghề đã chủ động ứng phó với tình hình, kịp thời thay đổi mẫu mã, tìm kiếm thị trường, mở rộng sản xuất, nên số doanh nghiệp vẫn tăng, từ 537 cơ sở năm 2010, lên 910 cơ sở năm 2015. Giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp ngoài nhà nước tăng từ 4.626 tỷ đồng năm 2010 (chiếm 92,37% giá trị sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp), lên 5.083 tỷ đồng năm 2013. Năm 2014 giảm xuống 4.408 tỷ đồng, do thị trường xuất khẩu đồ gỗ giảm (còn 29,3% giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp); trong khi đó khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh.

Quy mô công nghiệp tăng nhanh, công nghệ ngày càng hiện đại, công nghiệp hỗ trợ đã hình thành, là hạt nhân tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2015 đạt 31.000 tỷ đồng, tăng bình quân 35,7%/năm, tăng gấp 4,6 lần so với năm 2010 và như vậy, so với mục tiêu Đại hội đã tăng 2,9 lần. Kinh tế thị xã đã và đang hình thành các sản phẩm chủ lực, đó là điện tử, công nghệ thông tin, chế biến thực phẩm... Cơ cấu các thành phần kinh tế trong sản xuất công nghiệp ở thị xã thay đổi rất đáng kể, khi khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 78,6% tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Hoạt động xúc tiến và thu hút đầu tư được đẩy mạnh, ưu tiên các nhà đầu tư có công nghệ tiên tiến, hiện đại, công nghiệp chế biến, sử dụng đất tiết kiệm, không gây ô nhiễm môi trường, đóng góp thu ngân sách cao; tạo đà cho phát triển kinh tế, giải quyết nhiều việc làm. Trong đó điển hình là các nhà đầu tư nước ngoài trong khu công nghiệp VSIP.

Thương mại, dịch vụ phát triển mạnh. Các trung tâm thương mại, siêu thị, cửa hàng tự chọn và chợ nông thôn được đầu tư xây dựng. Đến năm 2015, có 05 siêu thị quy mô lớn, với 02 siêu thị hàng tiêu dùng, 02 siêu thị điện máy, 01 siêu thị đồ gỗ mỹ nghệ. Các trung tâm thương mại như: Hồng Kông, Ba Za, Chợ Giầu mới được đầu tư xây dựng hiện đại. Hoạt động thương mại - dịch vụ phát triển khá, tăng bình quân 17,9%/năm, đạt 124% mục tiêu Đại hội và tăng 2,3 lần so với năm 2010.

Kim ngạch xuất nhập khẩu có bước đột phá. Giá trị xuất khẩu năm 2015 đạt 2,7 tỷ USD, tăng 17 lần với mục tiêu Đại hội, tăng 34 lần so năm 2010. Xuất khẩu tăng như vậy là do tăng mạnh các sản phẩm thiết bị điện tử, công nghệ thông tin từ các doanh nghiệp nước ngoài. Còn nhập khẩu đạt 2,36 tỷ USD, tăng gần 12 lần với mục tiêu Đại hội, tăng 16,7 lần so năm 2010.

Hoạt động du lịch dần hình thành liên điểm du lịch tâm linh gắn với với du lịch làng nghề, gồm các điểm: Đền Đô, Sơn Lăng cấm địa, Chùa Tiêu, Khu lưu niệm Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ, Khu lưu niệm đồng chí Ngô Gia Tự, làng nghề đồ gỗ mỹ nghệ, thu hút khách du lịch ngày càng nhiều.

Các dịch vụ khác được mở rộng theo hướng đa dạng về loại hình, quy mô và chất lượng. Dịch vụ vận tải tăng trưởng khá, các tuyến xe buýt liên tỉnh, liên xã được mở rộng, tạo rất nhiều thuận lợi cho việc đi lại của nhân dân; dịch vụ viễn thông, công nghệ thông tin, tài chính, ngân hàng, cung cấp nước, cấp điện, khách sạn, nhà hàng, nhà nghỉ, phòng trọ... phát triển, đáp ứng nhu cầu sản xuất, sinh hoạt của nhân dân và người lao động, tăng đáng kể thu nhập cho nhân dân. Xã Phù Chẩn, năm 2010 vẫn còn thuần nông, nhưng đến năm 2015 đã có 70% số hộ làm dịch vụ phòng trọ, cung cấp nhu yếu phẩm cho công nhân khu công nghiệp VSIP.

Sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới có sự phát triển mới. Bên cạnh sự hỗ trợ của tỉnh, thị xã cũng đầu tư, hỗ trợ đã làm thay đổi diện mạo khu vực nông thôn, nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân. Nhiều vùng sản xuất hàng hóa tập trung được hình thành, cùng với việc ứng dụng khoa học kỹ thuật, cơ giới hóa sản xuất và bảo quản, chế biến; sản xuất nhiều giống cây trồng mới có năng suất, chất lượng cao. Ở thị xã Từ Sơn, loại hình nông nghiệp đô thị bước đầu được hình thành, như vùng chuyên canh lúa nếp, vùng rau an toàn và hoa, cây cảnh. Hưởng ứng phong trào Tết trồng cây, hàng năm thị xã trồng được gần 2.000 cây xanh. Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt 163,44 tỷ đồng, đạt 115% mục tiêu; trồng trọt đạt 97,2 triệu đồng/ha/năm, đạt mục tiêu.

Cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng giảm tỷ trọng ngành trồng trọt, tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi. Đó là: trồng trọt 31%; chăn nuôi, thủy sản 61%; dịch vụ 8% (năm 2010: 34,8%-59,3%- 5,9%). Đến năm 2015, thị xã có 23 trang trại chăn nuôi, 153 gia trại chăn nuôi theo mô hình tập trung.

Thị xã tích cực thực hiện chương trình xây dựng Nông thôn mới gắn với phát triển đô thị. Thị xã tập trung đầu tư xây dựng hệ thống điện chiếu sáng, đường giao thông, trường học, trạm y tế, nhà văn hoá-khu thể thao, cung cấp nước sạch, xử lý vệ sinh môi trường. Đến năm 2015, tất cả các xã đã lập xong quy hoạch chi tiết; xã Tương Giang được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, 04 xã Phù Khê, Hương Mạc, Châu Khê, Tam Sơn đạt từ 13-15/19 tiêu chí, tiếp tục thực hiện tiêu chí còn lại.

Công tác chỉnh trang đô thị và đầu tư xây dựng cơ bản được quan tâm hàng đầu. Thị xã đã hoàn chỉnh quy hoạch tổng thể đến năm 2020 tầm nhìn 2030; triển khai đề án ngầm hóa hệ thống đường dây, đường ống kỹ thuật; gắn phát triển các khu công nghiệp với đô thị, dịch vụ. Việc đầu tư phát triển được quan tâm theo hướng đồng bộ, hiện đại, trong đó chú trọng quản lý chặt đầu tư công, gắn với đẩy mạnh xã hội hóa nguồn vốn đầu tư; lựa chọn địa điểm, lĩnh vực đầu tư trọng yếu, tập trung các dự án trọng điểm và công trình cấp bách.

Công tác quản lý đầu tư công được tăng cường theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tiết kiệm, chống thất thoát và cân đối với nguồn lực. Việc nâng cao hiệu quả quản lý quy hoạch phát triển đô thị gắn với các mục tiêu lớn của Nghị quyết Đại hội. Bộ mặt đô thị thường xuyên được nâng cấp. Hệ thống giao thông được cải tạo, nâng cấp theo hướng đồng bộ, hiện đại, liên kết các vùng theo tuyến quốc lộ, tỉnh lộ đến đường nông thôn.

Các công trình trọng tâm, trọng điểm được đầu tư hàng nghìn tỷ đồng, cơ bản đã hoàn thành, như: Cầu Tiến Bào, đường 277 đoạn qua phường Đồng Kỵ vào khu lưu niệm Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, với khoảng 500 tỷ đồng; đường 295 qua Đồng Nguyên, Tam Sơn đi Yên Phong, đường HN2 qua phường Tân Hồng, Đông Ngàn; đường Hoàng Quốc Việt qua phường Đồng Nguyên; khu lưu niệm Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ hoàn thành dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ (2012), với khoảng 200 tỷ đồng; khu công viên Ngô Gia Tự hoàn thành dịp chào mừng 105 năm ngày sinh đồng chí Ngô Gia Tự (2013), với số tiền trên 80 tỷ đồng. Thị xã còn đầu tư xây dựng hoàn thành các công trình khác, là đường liên huyện 180 đoạn Phù Chẩn-Đại Đồng; trạm điện cao thế Trịnh Xá-Châu Khê; đường điện dân sinh ở Trịnh Nguyễn-Châu Khê; trụ sở xã Tương Giang, phường Đồng Nguyên, trụ sở công an phường Đồng Nguyên, Đình Bảng và xã Tam Sơn; xây dựng mới 8 trạm xá của 8 xã, phường; xây dựng đường ống cấp nước sạch ở Trang Hạ, Tương Giang; mở rộng, kiên cố hóa nhiều lớp học và hoàn thành các công trình đường giao thông liên thôn, xã…

Thị xã đầu tư hàng nghìn tỷ đồng tiếp tục xây dựng các công trình, như: đường 295B, với mức 650 tỷ đồng; nhà máy xử lý nước thải sinh hoạt và hệ thống đường ống thu gom, với 700 tỷ đồng; xây dựng đài tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ thị xã 60 tỷ đồng. Ngoài ra còn đầu tư xây dựng Trạm bơm đồng Bèo Phù Khê, đường ống cấp nước sạch ở các xã còn lại; đầu tư xây dựng mới và nâng cấp đường 277, xây dựng làn 2 cầu vượt Đại Đình, làn 2 cầu Đồng Kỵ; xây dựng khu văn hoá thể thao và nhà máy xử lý rác thải thị xã, trường tiểu học Châu Khê 1, trụ sở phường Đồng Kỵ và Trang Hạ…

Hạ tầng công nghệ thông tin, viễn thông cũng được hiện đại hóa; hạ tầng cung cấp điện được đầu tư theo nhu cầu phát triển nhanh công nghiệp; kết cấu hạ tầng xã hội được đầu tư đồng bộ.

Hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp ngày càng hoàn thiện, kênh mương được nạo vét, duy tu; cứng hóa, chỉnh trang toàn tuyến đê, kè xung yếu đảm bảo phòng chống lụt bão, phát triển sản xuất nông nghiệp.

Công tác quản lý, trùng tu, tôn tạo di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng được quan tâm. Việc chỉnh trang đô thị có nhiều chuyển biến tích cực, đã xây dựng hệ thống đèn chiếu sáng, đèn led tại công viên Lý Thái Tổ, các trục đường Lý Thái Tổ, Lý Thánh Tông, Ngô Gia Tự, Nguyễn Văn Cừ và đường phố Trần Phú, Minh Khai; đã hoàn thành cổng chào điện tử, bảng điện tử tại các cơ quan; hoàn thành đề án đặt tên đường phố và gắn biển số nhà; thường xuyên cắt tỉa, chăm sóc cây xanh, chuẩn bị lắp hệ thống đèn chiếu sáng trên trục đường Nguyên Phi Ỷ Lan, đảm bảo đô thị sáng-xanh-sạch-đẹp.

Các nguồn lực tài chính được khai thác, đáp ứng cơ bản nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Năm 2015, thu ngân sách của thị xã Từ Sơn đạt 690 tỷ đồng, tăng 86,6% so với năm 2010, cân đối được thu, chi. Cơ cấu thu ngân sách thay đổi tích cực, thu ngoài quốc doanh có xu hướng phát triển bền vững. Chi ngân sách địa phương tiết kiệm và thiết thực hơn, theo đó tập trung cho chi đầu tư phát triển. Hệ thống ngân hàng, với 12 ngân hàng và 06 quỹ tín dụng hoạt động ổn định, an toàn, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ thị trường, tạo môi trường đầu tư ổn định cho các doanh nghiệp, hộ kinh doanh.

Công tác quản lý đất đai và bảo vệ môi trường ngày càng được quan tâm. Thị xã thường xuyên và tăng cường quản lý đất đai theo pháp luật, đã hoàn thành quy hoạch sử dụng đất toàn thị xã giai đoạn 2010-2020, tầm nhìn 2030; lập xong bản đồ địa chính toàn thị xã và thiết lập hệ thống hồ sơ địa chính theo công nghệ phần mềm kỹ thuật số. Công tác giải phóng mặt bằng các dự án trọng tâm, trọng điểm được tập trung cao, trong đó giải phóng mặt bằng xong tại một số dự án phức tạp, như: nhà máy xử lý nước thải Châu Khê, tỉnh lộ 295 và khu đô thị thuộc đất đối ứng BT (xây dựng chuyển giao) tại phường Đồng Kỵ. Thị xã kịp thời lập hồ sơ thu hồi, giao đất cho các dự án; thực hiện xong 8/18 dự án giao đất dân cư dịch vụ, với diện tích 30,1ha; các dự án khác đang thi công hạ tầng để giao đất cho các hộ. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ được đáp ứng kịp thời, cũng như thực hiện nhanh thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất và chỉnh lý các biến động đất đai.

Công tác bảo vệ môi trường được thị xã dành quan tâm đặc biệt. Đề án bảo vệ môi trường được triển khai nghiêm túc, xây lắp thí điểm xong 2 hệ thống xử lý khí thải sản xuất thép tại cụm công nghiệp Châu Khê; đầu tư trên 200 thùng rác ở nơi công cộng và trường học; trang bị trên 200 xe rác cho các thôn, khu phố và các điểm dân cư đều có bãi tập kết rác thải; xây dựng 2 lò đốt rác tạm, công suất mỗi lò 15 tấn/ngày. Hệ thống thu gom nước thải và nhà máy xử lý nước thải Châu Khê đi vào hoạt động cuối năm 2015; đang xây dựng nhà máy xử lý rác thải tập trung của thị xã. Hệ thống cấp nước sạch ở xã Tương Giang xây dựng xong và tiếp tục được mở rộng ở phường Trang Hạ.

Sự nghiệp giáo dục-đào tạo luôn giữ vững thành tích và phát triển, có những chuyển biến tích cực về chất lượng mũi nhọn. Học sinh giỏi cấp tỉnh, năm học 2013-2014, của thị xã Từ Sơn đứng thứ 2/8 huyện, thị xã, thành phố của tỉnh Bắc Ninh. Tỷ lệ thi đỗ đại học, cao đẳng của 03 trường trung học phổ thông công lập tăng từ 40% năm học 2010-2011, lên 68,9% năm học 2013-2014, trong đó đỗ đại học 46%. Trình độ, năng lực của cán bộ quản lý, giáo viên ngày càng nâng cao, với 100% đạt chuẩn, trong đó 84,7% đạt trên chuẩn, tăng 31,3% so với năm 2010. Việc dạy ngoại ngữ, tin học, đạo đức, pháp luật được chú trọng hơn. Việc lập dự toán, quản lý, sử dụng các khoản thu trường học và dạy, học thêm được tăng cường, theo đúng quy định. Từ năm 2014, thị xã đã triển khai “chương trình sữa học đường” tại các trường mầm non, cả công lập và tư thục, đạt hiệu quả cao.

Cơ sở vật chất, trang thiết bị được tăng cường đầu tư, tỷ lệ phòng học kiên cố các cấp học đạt 96%, tăng 3,7%; trường chuẩn Quốc gia đạt 98%, trong đó khối mầm non và trung học cơ sở đạt 100%, cao nhất so với các huyện, thành phố trong tỉnh Bắc Ninh, tăng 25,7% so với năm 2010. Việc xã hội hoá giáo dục, việc mở rộng mạng lưới các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề được quan tâm, đã góp phần đào tạo, thu hút nguồn nhân lực cho thị xã.

Tiếp nối truyền thống hiếu học của quê hương Từ Sơn – Đông Ngàn, việc khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập luôn phát triển vững mạnh và bền vững; 100% trung tâm học tập cộng đồng ở xã, phường được mua sắm các loại sách, đáp ứng nhu cầu ham học tập của người dân. Phong trào xây dựng gia đình, dòng họ, thôn xóm hiếu học, gắn với khuyến học, đã và đang được triển khai một cách sâu rộng, với kết quả to lớn.

Công tác y tế, bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân có nhiều tiến bộ, được tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Tính đến 31-12-2014, toàn ngành y tế thị xã có 261 cán bộ, y, bác sỹ, trong đó có 01 tiến sỹ, 01 thầy thuốc ưu tú, 03 bác sĩ chuyên khoa cấp II, 30 bác sỹ chuyên khoa cấp I, 62 bác sỹ; có 02 dược sỹ chuyên khoa cấp I, 08 cử nhân y khoa.

Bệnh viện đa khoa thị xã được đầu tư trang thiết bị hiện đại, như máy chụp cắt lớp, máy XQ kỹ thuật số, máy nội soi tiêu hóa và tai mũi họng, máy thở, máy gây mê, lồng ấp trẻ sơ sinh non tháng... trong đó, một số máy lần đầu được trang bị ở bệnh viện tuyến huyện. Qua đó chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân trong và ngoài địa phương được nâng cao và số lượng bệnh nhân mỗi ngày cũng nhiều hơn, tới trên 600 lượt người, gần tương đương với Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Ninh.

Trạm y tế các xã, phường cũng được trang bị 72 danh mục thiết bị y tế trong chương trình tài trợ của EU, trong đó có máy siêu âm và điện tim. Việc xã hội hóa y tế được đẩy mạnh. Y tế ngoài công lập phát triển nhanh, với 51 cơ sở khám chữa bệnh chuyên khoa đông-tây y. Công tác dân số-kế hoạch hoá gia đình, mạng lưới y tế dự phòng được củng cố, phát triển và hoạt động hiệu quả hơn. Công tác kiểm tra, quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm được tăng cường. Công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em được quan tâm, nhất là các em thuộc đối tượng nghèo, khuyết tật, con gia đình chính sách và đã duy trì tốt việc tiêm phòng theo định kỳ, phòng chống dịch bệnh.

Đến năm 2015, đã có 8 xã, phường đạt chuẩn quốc gia về y tế; duy trì tốt việc khám bệnh miễn phí cho các đối tượng chính sách, cho người cao tuổi; mỗi năm bệnh viện 103, viện 110, viện đa khoa thị xã và Hội thầy thuốc trẻ tổ chức khám bệnh, cấp thuốc miễn phí tại 4-5 xã, phường.

Hoạt động văn hoá, thể dục, thể thao tiếp tục phát triển, đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân được nâng cao. Văn hóa, thể thao, du lịch có nhiều chuyển biến, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của địa phương. Công tác quản lý, bảo tồn, trùng tu, sửa chữa và phát huy giá trị các di sản văn hóa đạt nhiều kết quả. Năm 2015, thị xã đã có 68/81 thôn, khu phố có nhà văn hóa; mỗi năm xây mới được 3-4 nhà văn hóa; 100% xã, phường có đài phát thanh. Việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội, mừng thọ, đón nhận danh hiệu thi đua, kỷ niệm ngày truyền thống, theo tinh thần Nghị quyết số 20 và 22 của Hội đồng nhân dân tỉnh, có nhiều chuyển biến tích cực, nhất là việc hỏa táng cho người chết hàng năm đạt từ 25-30%, ở mức cao nhất tỉnh Bắc Ninh. Phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” ngày càng đi vào thực chất.

Công tác phát thanh, truyền thanh trên địa bàn thị xã được tăng cường; chất lượng tin bài được nâng lên rõ rệt. Công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực. Thị xã là đơn vị đi đầu toàn tỉnh về ứng dụng công nghệ thông tin trong phát thanh, truyền thanh và triển khai ứng dụng phần mềm quản lý văn bản điều hành đến cấp xã. Thị xã tổ chức thành công nhiều hoạt động nhân dịp các ngày kỷ niệm lớn của đất nước và địa phương, như: kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội; 50 năm phong trào Nghìn việc tốt (24-3-1963 – 24-3-2013); 100 năm ngày sinh Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ (9-7-1912 – 9-7-2012) và đón nhận Huân chương Độc lập hạng Ba...

Phong trào văn nghệ quần chúng ở Từ Sơn phát triển rộng khắp, luôn đứng trong tốp đầu của tỉnh trong các Hội thi, Hội diễn do tỉnh tổ chức. Phong trào thể dục, thể thao quần chúng phát triển ngày càng sâu rộng theo nội dung cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Các môn thể thao mũi nhọn như cầu lông, quần vợt, bóng chuyền, karatedo, với nhiều vận động viên trẻ tham gia và đạt được nhiều thành tích cao, thuộc tốp đầu của tỉnh. Toàn thị xã hiện có 13 sân bóng đá mini cỏ nhân tạo ngoài trời; 9 sân tennis; 3 bể bơi, được đầu tư từ nguồn xã hội hóa.

Công tác lao động, việc làm và thực hiện chính sách an sinh xã hội ngày càng được coi trọng, đời sống nhân dân được cải thiện. Hàng năm nhân dịp lễ, Tết nguyên đán, lãnh đạo thị xã đều tổ chức đi thăm và tặng quà cho các gia đình có công với cách mạng và đối tượng chính sách. Chỉ trong năm 2014, thị xã tặng số quà trị giá hơn 2,5 tỷ đồng; chi trả hơn 44 tỷ đồng trợ cấp cho gần 8.000 người có công và trợ cấp xã hội; xã hội hóa được hàng trăm triệu đồng quà tặng, hàng nghìn lượt hộ nghèo, người khuyết tật được hỗ trợ hàng năm. Bảo hiểm y tế cấp phát thẻ kịp thời, đúng đối tượng. Chương trình hỗ trợ nhà ở cho người có công, đối tượng bảo trợ xã hội từ nguồn ngân sách Nhà nước và xã hội hóa được thực hiện có hiệu quả. Thị xã trích quỹ ngày vì người nghèo 370 triệu đồng hỗ trợ xây mới 56 nhà, sửa chữa 07 nhà đại đoàn kết; hỗ trợ 600 triệu đồng từ ngân sách xây dựng, sửa chữa 16 nhà ở cho người có công với cách mạng.

Chính quyền đã tạo thêm nhiều nghề mới cho người lao động, nhất là với người bị thu hồi đất nông nghiệp cho các dự án. Trong 5 năm (2010-2015), thị xã đã giải quyết việc làm cho trên 15.000 lao động. Số hộ nghèo chỉ còn 1,38%; cận chiếm 1,32%, thấp hơn nhiều so với mức trung bình toàn tỉnh.

Công tác tôn giáo nói chung và quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng nói riêng, đã thể hiện đúng sự tôn trọng, bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Thực hiện Chỉ thị 1940/CT-TTg, ngày 31-12-2008, của Thủ tướng Chính phủ Vnhà đất liên quan đến tôn giáo, đến năm 2015, thị xã đã cấp 78/80 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cho các cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng. Các nhà thờ, đình, chùa đầu tư tới hàng trăm tỷ đồng để xây dựng và tu sửa. Việc cấp phép xây dựng, sửa chữa và việc quản lý hoạt động tôn giáo, tiếp nhận chức sắc, nhà tu hành tôn giáo đáp ứng được nhu cầu chính đáng của tín đồ, chức sắc tôn giáo, với sự thống nhất của Ban chỉ đạo công tác tôn giáo. Hàng năm, Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc các cấp dành hàng trăm triệu đồng để thăm hỏi, động viên các vị chức sắc tôn giáo, nhằm tăng cường đoàn kết, hòa hợp Đạo-Đời. Công tác quản lý Di sản văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo và lịch sử, cách mạng ở Từ Sơn đã có nề nếp và kinh nghiệm, phát huy được vai trò của cả chủ thể, đối tượng và khách thể quản lý, làm cơ sở cho giáo dục văn hoá truyền thống và cho du lịch tâm linh gắn với làng nghề.

Công tác quốc phòng, an ninh tiếp tục được chú trọng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được củng cố; công tác huấn luyện dân quân tự vệ, dự bị động viên được tăng cường; việc bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh được coi trọng. Chất lượng tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang ngày càng được nâng cao.

Công tác quân sự địa phương được tăng cường. Trong 05 năm (2010-2015), có 1.007 thanh niên nhập ngũ, hoàn thành 100% chỉ tiêu. Số thanh niên có đơn tình nguyện nhập ngũ chiếm tỷ lệ cao, chất lượng công dân nhập ngũ và chất lượng tập luyện tăng dần hàng năm. Các cuộc diễn tập phòng thủ khu vực thị xã và diễn tập chiến đấu trị an tại các xã, phường được tổ chức thành công và được tặng bằng khen. Thị xã được công nhận là đơn vị vững mạnh toàn diện, quyết thắng.

Thị xã đã thực hiện có hiệu quả chiến lược an ninh quốc gia, giữ vững an ninh chính trị nội bộ, kinh tế, thông tin. An ninh nông thôn, đô thị được bảo đảm tốt; các hoạt động buôn bán, cư trú và sản xuất kinh doanh của người nước ngoài ở các làng nghề và các khu công nghiệp được quản lý chặt chẽ. Công tác quản lý, triệt phá các tụ điểm lớn, bức xúc về tệ nạn cờ bạc, mại dâm và buôn bán chất ma túy có nhiều thành công; các giải pháp nhằm kiềm chế tai nạn và ùn tắc giao thông được thực hiện đồng bộ.

Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được các cấp ủy Đảng, chính quyền quan tâm, xây dựng, mở rộng được nhiều mô hình hoạt động có hiệu quả. Năm 2015, toàn thị xã có 868 tổ liên gia, 58 tổ hoà giải cơ sở, với 347 thành viên. Lực lượng công an, bảo vệ dân phố, tổ an ninh dân phòng tự quản được tăng cường, phối hợp chặt chẽ các lực lượng vũ trang đã bảo đảm vững chắc an ninh trật tự trên địa bàn. Công tác an ninh chủ động nắm tình hình, phát hiện, đấu tranh ngăn chặn kịp thời và xử lý có hiệu quả nhiều vụ việc phức tạp về kinh tế, xã hội Và tôn giáo.

Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng của Đảng bộ thị xã Từ Sơn được tăng cường và đổi mới. Việc học tập, quán triệt Nghị quyết của Trung ương Đảng, chỉ đạo của các ngành, cấp vĩ mô đã không dừng lại ở nhận thức thuần tuý, mà coi trọng đến việc thể chế hóa thành chương trình hành động của thị xã. Trong lãnh đạo, điều hành công tác, một mặt, lãnh đạo Đảng bộ thường xuyên đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện, mặt khác, bám sát quy chế, ban hành Nghị quyết, Kết luận và Chỉ thị chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ theo Nghị quyết Đại hội Đảng. Công tác xây dựng Đảng còn được triển khai trong việc phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị các cấp. Ngành Tuyên giáo đã có nhiều biện pháp nắm tình hình và dư luận xã hội, làm cơ sở cho việc giáo dục lý luận gắn với thực tiễn. Trong 5 năm (2010-2015), Đảng bộ thị xã đã tổ chức 21 lớp bồi dưỡng đối tượng đảng, 15 lớp bồi dưỡng đảng viên mới, 04 lớp Sơ cấp lý luận chính trị và phối hợp với Trường Chính trị Nguyễn Văn Cừ mở 02 lớp Trung cấp lý luận chính trị-hành chính; cử 13 cán bộ đi đào tạo cao cấp lý luận chính trị, 184 đồng chí học lớp trung cấp, 560 đồng chí học chuyên môn nghiệp vụ, 32.211 lượt người dự lớp cập nhật kiến thức mới.

Hội nghị thông tin công tác tư tưởng giáo được tổ chức hàng tháng cho đội ngũ báo cáo viên cơ sở; 100% chi, Đảng bộ có Tạp chí xây dựng đảng và có Thông tin sinh hoạt chi bộ, báo Nhân dân, báo Bắc Ninh. Đến năm 2015, đã hoàn thành việc biên soạn và xuất bản Lịch sử Đảng bộ các xã, phường; chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ biên soạn lịch sử của các ngành; biên soạn và xuất bản sách ảnh kỷ niệm 15 năm xây dựng và phát triển thị xã Từ Sơn.

Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh với nhiều hình thức đa dạng, phong phú và đạt kết quả tốt. Các Chi, Đảng bộ đã hoàn thành việc xây dựng, niêm yết các tiêu chí về chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh phù hợp với từng ngành, từng lĩnh vực.

Việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) có sự chuyển biến rõ rệt trong việc ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng. Đảng bộ thị xã quán triệt Nghị quyết Trung ương 4 đã khắc phục được cơ bản những hạn chế, khuyết điểm, nhất là trong công tác cán bộ, trong việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng, đáng kể là nguyên tắc tập trung dân chủ. Đối với Đảng bộ thị xã Từ Sơn, Nghị quyết Trung ương 4 đã thực sự tạo ra được sự chuyển biến trong công tác xây dựng đảng, tới từng cán bộ, đảng viên, góp phần thực hiện tốt Kế hoạch số 39-KH/TU của Tỉnh ủy Bắc Ninh và Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị.

Các cấp uỷ đảng đã triển khai đồng bộ các biện pháp xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, theo đó củng cố, kiện toàn mô hình tổ chức đảng ở các loại hình, đảm bảo sự thống nhất, hoạt động có hiệu quả. Trong khi vẫn còn có những cán bộ, đảng viên không được nhân dân tin tưởng, thì trong đội ngũ cán bộ, nhất là trong cấp uỷ các cấp, có không ít người đã phấn đấu và thể hiện như là tấm gương của quần chúng và họ được nhân dân tin yêu; không ít bí thư cấp ủy rất coi trọng việc đối thoại, trả lời trước nhân dân.

Việc quy định cấp uỷ viên đi công tác cơ sở và dự sinh hoạt chi bộ được thực hiện nghiêm túc; thực hiện tốt đấu tranh phê, tự phê bình; tăng cường quản lý, phân công nhiệm vụ cho đảng viên; phát huy có hiệu quả các cuộc giao ban Bí thư Đảng ủy các xã, phường và giao ban khối Nội chính, khối Đảng, đoàn thể. Việc nâng cao năng lực, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên nhìn chung đã được quan tâm, đảm bảo cả về số lượng và chất lượng. Trong nhiệm kỳ phát triển thêm một tổ chức Đảng ở doanh nghiệp ngoài nhà nước; kết nạp 719 đảng viên, nâng tổng số đảng viên của Đảng bộ thị xã lên 4.891 người, vượt chỉ tiêu đề ra. Đảng bộ thị xã liên tục đạt trong sạch vững mạnh.

Công tác cán bộ đã triển khai đồng bộ, đạt kết quả tích cực. Công tác quy hoạch cán bộ được thực hiện tốt và việc đánh giá, bố trí, sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm và bổ nhiệm lại cán bộ đảm bảo quy trình, dân chủ, công khai. Đảng bộ các cấp chú trọng quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm cán bộ trẻ, cán bộ nữ.

Công tác bảo vệ chính trị nội bộ khi xuất hiện vấn đề liên quan đến cán bộ, đảng viên và nội bộ đảng đều được thẩm tra, xác minh, kết luận kịp thời. Công tác kiểm tra được cấp ủy tăng cường chỉ đạo, trong nhiệm kỳ, đã xử lý kỷ luật 5 tổ chức Đảng (khiển trách 4, cảnh cáo 1) và 97 đảng viên (khiển trách 63, cảnh cáo 18, cách chức 2, khai trừ 14). Các công tác này đã góp phần rất quan trọng vào công tác xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh ở thời kỳ phát triển hiện nay.

Công tác xây dựng, củng cố chính quyền. Trong nhiệm kỳ 2011-2015, Hội đồng nhân dân thị xã được củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động. Ngày 22-5-2011, cử tri thị xã Từ Sơn đã bầu Hội đồng nhân dân thị xã gồm 37 đại biểu. Trong đó 23 đại biểu có trình độ đại học, trên đại học, 09 đại biểu là nữ, 34 đại biểu là đảng viên, 03 đại biểu ngoài Đảng.

Tại kỳ họp thứ nhất ngày 21-6-2011, Hội đồng nhân dân thị xã đã bầu ông Vũ Đức Quyết làm Chủ tịch Hội đồng và ông Ngô Văn Tú, Phó Chủ tịch Hội đồng, ông Dương Văn Hướng làm ủy viên Thường trực Hội đồng nhân dân. Tháng 11-2011, ông Ngô Văn Tú, Phó Chủ tịch Hội đồng được cử phụ trách Hội đồng thay ông Vũ Đức Quyết đi nhận nhiệm vụ mới. Ngày 04-04-2013, ông Nguyễn Văn Toán, Trưởng Ban tuyên giáo, Trưởng ban Pháp chế được bầu bổ sung làm Chủ tịch Hội đồng. Tháng 9/2015, Hội đồng miễn nhiệm chức danh Phó chủ tịch đối với ông Ngô Văn Tú (chuyển công tác), bầu bổ sung bà Nguyễn Thị Lệ Tuyết làm Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân thị xã.

Các kỳ họp của Hội đồng nhân dân thị xã ngày càng đi vào nền nếp, có hiệu quả. Hội đồng đã tiến hành lấy phiếu tín nhiệm các chức danh do Hội đồng bầu ra theo đúng quy định; việc tiếp xúc cử tri và công tác giám sát của Hội đồng ngày càng được chú trọng hơn.

Ủy ban Nhân dân thị xã được kiện toàn và ngày càng hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Tại kỳ họp thứ nhất Hội đồng nhân dân thị xã, ngày 25-6-2011, đồng chí Nguyễn Văn Quỹ được bầu là Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã, đồng chí Nguyễn Thị Vân Hà làm Phó Chủ tịch Thường trực Ủy ban nhân dân và đồng chí Ngô Minh Châu làm phó chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã.

Nhiệm vụ xây dựng, củng cố chính quyền được các cấp ủy đảng của Thị xã Từ Sơn xác định là công tác trọng tâm, với việc đẩy mạnh cải cách hành chính gắn với cải cách tư pháp, tăng cường phòng, chống tham nhũng; xây dựng chính quyền các cấp vững mạnh. Cải cách hành chính được triển khai đồng bộ các việc, như xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu; thực hiện có hiệu quả mô hình “một cửa liên thông hiện đại”, áp dụng các thủ tục hành chính tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả; ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, thực hiện phần mềm quản lý văn bản đến cấp xã (đi đầu toàn tỉnh). Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, trợ giúp pháp lý, kiểm soát thủ tục hành chính, cải cách tư pháp, được tiến hành thường xuyên. Công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí được quan tâm có trọng điểm, tập trung vào các lĩnh vực xây dựng cơ bản, đất đai, ngân sách; thực hiện công khai, minh bạch việc kê khai tài sản và thu nhập của cán bộ.

Công tác Mặt trận và đoàn thể các cấp của thị xã Từ Sơn đã được tăng cường, nhằm củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, luôn phấn đấu để xứng đáng là tổ chức chính trị – xã hội đại diện và bảo vệ cho lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân Từ Sơn. Nhiệm kỳ qua, Mặt trận thị xã đã vận động các tổ chức, cá nhân ủng hộ 5.213 tỷ đồng xây dựng quỹ “Ngày vì người nghèo”; hỗ trợ xây dựng mới và sửa chữa 67 nhà Đại đoàn kết; vận động giúp đỡ người nghèo trị giá 5,450 tỷ đồng và 8520 ngày công lao động; tín chấp cho đoàn viên, hội viên vay 168 tỷ 902 triệu đồng để phát triển sản xuất kinh doanh; thăm hỏi tặng quà cho hộ nghèo 3.686 triệu đồng; ủng hộ các địa phương bị thiên tai.

Mặt trận Tổ quốc các cấp, thông qua các đoàn thể chính trị – xã hội, vận động nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền cấp thị xã và cơ sở; giám sát hoạt động quản lý nhà nước của cán bộ, công chức và các cơ quan chính quyền trên các lĩnh vực xã hội địa phương; đồng thời tổ chức phản biện xã hội các dự thảo quyết sách chính trị xây dựng, phát triển mọi mặt thị xã Từ Sơn. Mặt trận đã luôn đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, khắc phục tính hình thức và tình trạng “Mặt trận nhà nước hoà”. Các Ban công tác Mặt trận ở khu dân cư đã dần trở thành lượng nòng cốt trong tập hợp, vận động nhân dân và là cầu nối không thể thiếu giữa nhân dân với Đảng, chính quyền thị xã, phường, xã.

Đoàn Thanh niên thị xã trong 5 năm qua đã có nhiều hoạt động thiết thực. Công tác tuyên truyền, giáo dục cho thanh niên được tập trung vào các nội dung giáo dục chính trị tư tưởng, truyền thống, pháp luật và trách nhiệm công dân. Công tác xây dựng tổ chức Đoàn vững mạnh được duy trì và giữ vững. Trong thời kỳ này, các cơ sở Đoàn trong thị xã đã giới thiệu cho Đảng kết nạp 370 đoàn viên vào Đảng, chiếm 67% tổng số đảng viên mới. Hội Liên hiệp thanh niên, Đội thiếu niên đã duy trì và sáng tạo các hoạt động thanh niên làm giàu, lập nghiệp. Phong trào thanh niên “Xung kích phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ quốc” thu hút đông đảo đoàn viên, thanh thiếu nhi tham gia; nhiều thanh niên tình nguyện vào bộ đội; các phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, trồng cây xanh triển khai tốt.

Hội Liên hiệp Phụ nữ đã vận động phụ nữ phát huy truyền thống đoàn kết, sáng tạo trong học tập, lao động và công tác, đạt nhiều thành tích xuất sắc trên các lĩnh vực, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Nhận thức về bình đẳng giới của chị em phụ nữ được nâng lên. Hội liên hiệp phụ nữ các cấp luôn đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tích cự tham gia hiện thực hoá chủ trương, chính sách của Ðảng, Nhà nước. Cuộc vận động xây dựng gia đình “5 không, 3 sạch”, phụ nữ tham gia bảo vệ môi trường có nhiều thành công. Công tác xây dựng tổ chức Hội vững mạnh được thực hiện thường xuyên. Các mô hình tập hợp, đoàn kết hội viên được nhân rộng, như mô hình câu lạc bộ gia đình hạnh phúc, câu lạc bộ phụ nữ cao tuổi, câu lạc bộ nữ chủ nhà trọ… Nhiệm kỳ 2010-2015, Hội phát triển đươc 2.055 hội viên mới, đưa số hội viên lên 28.840 người (đạt tỷ lệ 87,3%).

Hội Nông dân chú trọng vận đông nông dân thị xã phát huy tinh thần yêu nước, đức tính cần cù, lao động sáng tạo; đoàn kết, hợp tác giúp đỡ nhau trong sản xuất, kinh doanh; khai thác có hiệu quả tiềm năng về vốn, đất đai, lao động, tiếp thu các tiến bộ khoa học và công nghệ tiên tiến; chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển ngành nghề, tiếp cận thị trường... đã tạo ra nhiều sản phẩm nông nghiệp có năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế cao. Trong 5 năm, Hội đã kết nạp được 755 hội viên mới, nâng tổng số lên 22.888 hội viên, chiếm 91,25% so với tổng số hộ nông nghiệp. Hội Nông dân Thị xã 05 năm liền đạt vững mạnh và vững mạnh xuất sắc đứng trong tốp đầu của tỉnh.

Hội Cựu chiến binh vận động hội viên phát huy truyền thống người chiến sỹ Quân đội nhân dân Việt Nam, truyền thống bộ đội Cụ Hồ, luôn vững vàng, kiên định về chính trị, tư tưởng; vai trò, uy tín của Hội ngày càng được khẳng định. Các cấp Hội thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng cho hội viên; quán triệt các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng; tổ chức giáo dục truyền thống yêu nước, cách mạng cho thế hệ trẻ; các hoạt động nghĩa tình đồng đội, nhân đạo từ thiện được đông đảo hội viên hưởng ứng. Các cấp Hội thường xuyên tuyên truyền, động viên hội viên tích cực tham gia phát triển kinh tế, sản xuất và làm giàu chính đáng; đời sống vật chất và tinh thần của hội viên được cải thiện đáng kể.

Liên đoàn Lao động tập trung chỉ đạo và tổ chức thực hiện có hiệu quả nhiều phong trào thi đua. Nổi bật là phong trào “Lao động giỏi, lao động sáng tạo”, phong trào “5 không”, thu hút đông đảo công nhân tham gia. Liên đoàn thực hiện khá tốt chức năng chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của người lao động. Liên đoàn coi trọng công tác phát triển đoàn viên và tổ chức công đoàn; làm tốt việc tuyên truyền, giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên, thực hiện chuẩn mực đạo đức “5 xây, 5 chống” trong công nhân, viên chức, học và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Với thành tích của mình, mấy năm qua, Liên đoàn Lao động thị xã được nhận cờ Thi đua toàn diện của Liên đoàn lao động tỉnh, 02 lần được nhận cờ thi đua toàn diện của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam (năm 2012, 2014) và được Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen (năm 2014).

Đảng bộ thị xã Từ Sơn trong nhiệm kỳ 2010-2015, đã nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, thử thách dành được nhiều thành tựu quan trọng. Các lĩnh vực xã hội của thị xã Từ Sơn, từ kinh tế, văn hoá, xã hội cho đến chính trị, không thể phủ nhận rằng đã có bước phát triển vượt bậc so với một số nhiệm kỳ Đại hội trước đây. Với thành công đó, Thị xã Từ Sơn, năm 2011, xứng đáng được Chủ tịch nước tặng Huân chương lao động hạng Nhất và năm 2014, được tặng Huân chương Độc lập hạng Ba.

Tuy nhiên trong nhiệm kỳ này, Đảng bộ lãnh đạo thị xã vẫn còn những yếu kém, bất cập trước yêu cầu phát triển mới. Đối với lĩnh vực kinh tế – xã hội, trên địa bàn thị xã đã xảy ra những vụ việc vi phạm lớn; liên quan đến trật tự, an toàn xã hội cũng xảy ra một số vụ việc khiến xã hội lo ngại; còn trong nội bộ Đảng đã phải xử lý kỷ luật không ít tổ chức Đảng và đảng viên. Vậy, cần phải nhận thức khách quan, toàn diện hơn về trách nhiệm lãnh đạo của Đảng bộ thị xã, không phải để phê phán, “đào bới”, mà để tìm ra nguyên nhân, rút ra bài học kinh nghiệm và đề ra những giải pháp cấp bách, cũng như căn cơ, nhằm đảm bảo vững chắc vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng bộ trong tình hình phát triển mới.    

III. ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ THỊ XÃ TỪ SƠN LẦN THỨ XVII, NHIỆM KỲ (2016-2021)

Đại hội Đảng bộ Thị xã Từ Sơn lần thứ XVII được tổ chức tại Hội trường thị xã Từ Sơn, từ ngày 18 đến ngày 20-7-2015. Tham dự đại hội có 200 đại biểu, đại diện cho 56 đảng bộ trực thuộc Đảng bộ thị xã Từ Sơn.

Tổng kết nhiệm kỳ trước, Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ XVII (2015-2021). Về quan điểm phát triển thị xã ở giai đoạn hiện nay, Đại hội chỉ rõ: Trên cơ sở quy hoạch phát triển của tỉnh Bắc Ninh, Thị xã Từ Sơn định hướng quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội trở thành khu vực kinh tế trọng điểm, tiếp nhận các mối quan hệ (quan hệ vùng) giữa Bắc Ninh với Thủ đô Hà Nội. Thị xã phát triển trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển kinh tế đô thị, với các ngành dịch vụ, thương mại, du lịch; phát triển công nghệ cao và nông nghiệp đô thị, các làng nghề phát triển bền vững; chỉnh trang, mở rộng đô thị, phát triển mạnh kết cấu hạ tầng, phát triển văn hóa, xã hội; gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng, tiến bộ xã hội, với củng cố hệ thống chính trị, bảo vệ quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị.

Phương hướng của giai đoạn đoạn này được Đảng bộ thị xã Từ Sơn xác định: tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Ðảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; tăng cường quốc phòng, an ninh. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển bền vững và đô thị hóa theo hướng văn minh, hiện đại. Phát triển công nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sản xuất hàng hóa, xây dựng nông thôn mới. Thị xã Từ Sơn trở thành đô thị loại III vào năm 2020, để đưa Bắc Ninh là thành phố trực thuộc Trung ương vào những năm 20.

Nghị quyết Đại hội xác định chỉ tiêu cụ thể của nhiệm kỳ: Kinh tế phát triển với 12 mục tiêu:1) Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) tăng bình quân 11%/năm; 2) Cơ cấu kinh tế: tỷ trọng công nghiệp-xây dựng chiếm 79,3%; dịch vụ-thương mại 19,5%; nông, lâm nghiệp, thủy sản giảm còn 1,2%; 3) Giá trị sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp 184.555 tỷ đồng; 4) Sản xuất nông nghiệp 579,2 tỷ đồng; 5) Trồng trọt, nuôi trồng thủy sản 110 triệu đồng/ha canh tác/năm; 6) Tổng mức bán lẻ và dịch vụ 16.180 tỷ đồng; 7) Xuất khẩu 6,58 tỷ USD; nhập khẩu 6,4 tỷ USD; 8) Tổng thu ngân sách 620 tỷ đồng; 9) Tổng sản phẩm GRDP bình quân đầu người đạt trên 8.860 USD/người/năm; 10) 100% số xã hoàn thành chương trình xây dựng Nông thôn mới.

Về văn hóa-xã hội, quốc phòng-an ninh, có 12 tiêu chí cụ thể: 1) 100% phòng, lớp học kiên cố, trường đạt chuẩn quốc gia; 2) năm 2018: 100% đơn vị đạt tiêu chí quốc gia về y tế; 3) Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 1,5%; 4) Giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 05 tuổi còn 6%; 5) Tỷ lệ hộ nghèo còn 1,3%; 6) 75% số thôn-khu phố đạt danh hiệu văn hóa, 85% cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hoá; xây dựng xong các công trình, các thiết chế văn hóa-thể thao; 7) Tỷ lệ lao động qua đào tạo 93,1%; 8) Giải quyết việc làm mỗi năm 4.000 người; giảm thất nghiệp dưới 3%; 9) 100% số hộ dùng nước sạch; 10) hoàn chỉnh hệ thống xử lý rác thải, chất thải; 100% rác thải, nước thải y tế, sinh hoạt và trong sản xuất được xử lý; 11) Trên 30% số người chết được hỏa táng; 12) Thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng, giữ vững an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Về công tác xây dựng hệ thống chính trị được xác định: 1) Giữ vững Đảng bộ đạt trong sạch vững mạnh; xây dựng chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân vững mạnh, xuất sắc; 2) 80% tổ chức cơ sở Đảng đạt trong sạch, vững mạnh; 3) thành lập mới 06-07 tổ chức Đảng doanh nghiệp ngoài quốc doanh; 4) Kết nạp 700-800 đảng viên mới; 85% đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ; 5) 100% tổ chức đảng và đảng viên công tác được kiểm tra, giám sát;

Đại hội bầu ban chấp hành Thị ủy khóa XVII, gồm 41 đồng chí, Ban Thường vụ 11 người là: đồng chí Trần Quang Huy, Nguyễn Văn Toán, Nguyễn Văn Quỹ, Trần Văn Thảo, Đỗ Cường, Lê Văn Nam, Nguyễn Xuân Thanh, Ngô Văn Tú, Nguyễn Thị Lệ Tuyết, Hoàng Văn Minh và Nguyễn Hữu Hưng. Đồng chí Trần Quang Huy được bầu giữ chức Bí thư Thị ủy; đồng chí Nguyễn Văn Toán làm Phó Bí thư Thường trực; đồng chí Nguyễn Văn Quỹ, Phó Bí thư, Chủ tịch ủy ban nhân dân thị xã. Năm 2016, đồng chí Nguyễn Văn Quỹ và đồng chí Nguyễn Hữu Hưng được điều động lên tỉnh công tác, đồng chí Nguyễn Xuân Thanh được bầu làm Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã, bầu bổ sung đồng chí Nguyễn Văn Huệ - Trưởng Công an Thị xã vào Ban Thường vụ. Năm 2017, đồng chí Hoàng Bá Huy được điều về giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thị xã, bầu bổ sung vào Ban Chấp hành khóa XVII.

Trong 3 năm của nhiệm kỳ (2016-2018), Đảng bộ thị xã Từ Sơn đang tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XIX và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thị xã lần thứ XVII. Đảng bộ thị xã lãnh đạo địa phương trong bối cảnh thế giới, bên cạnh những thuận lợi, đã nảy sinh nhiều khó khăn, với những diễn biến phức tạp. Ở trong nước, kinh tế vĩ mô tiếp tục tăng trưởng, xã hội – chính trị ổn định. Trong khi đó, tỉnh Bắc Ninh và thị xã Từ Sơn đang có khó khăn, do kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài giảm mạnh; hoạt động sản suất kinh doanh của các làng nghề truyền thống vẫn ảm đạm, ảnh hưởng trực tiếp tới phát triển kinh tế-xã hội và đời sống nhân dân.

Song, với tinh thần quyết tâm rất cao, ngay từ đầu năm 2016, Thị ủy, chính quyền thị xã Từ Sơn đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các nhiệm vụ chính trị đạt được nhiều kết quả tích cực: Kinh tế thị xã tiếp tục phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, quốc phòng, an ninh được giữ vững; công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể có nhiều đổi mới, hiệu quả hơn. Đặc biệt đã thực hiện hoàn thành Chương trình xây dựng nông thôn mới và xây dựng nhà ở cho hộ nghèo trên địa bàn thị xã.

Phát triển kinh tế và xây dựng cơ sở vật chất. Trong 3 năm 2016-2018, nền kinh tế của thị xã Từ Sơn vẫn giữ được tốc độ phát triển cao và vững chắc. Tổng sản phẩm GRDP tăng 5,7% (trừ khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài); cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ ngày càng cao trong nền kinh tế. Năm 2016, cơ cấu kinh tế so với năm 2015 là: công nghiệp-xây dựng chiếm 79,1%, tăng 0,6%; dịch vụ chiếm 18,8%, tăng 0,7%; nông nghiệp chiếm 2,1%, giảm 0,1% . Tuy nhiên, thu nhập bình quân chỉ đạt 4.787 USD/người/năm, giảm 890 USD/người/năm so với năm 2015.

Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Tính đến năm 2018, trên địa bàn Thị xã Tư Sơn có 10 cụm công nghiệp làng nghề và đa nghề, với tổng diện tích 156,78ha,  có 579 doanh nghiệp đang hoạt động và 9 khu thương mại dịch vụ, làng nghề với diện tích 54ha. Các làng nghề truyền thống cũng phát triển mạnh mẽ. Các chủ doanh nghiệp và cơ sở sản xuất khu vực làng nghề đã chủ động thay đổi mẫu mã, tìm kiếm thị trường, mở rộng sản xuất, nên số doanh nghiệp tăng từ 537 cơ sở năm 2010, lên 910 cơ sở năm 2016. Hằng năm, doanh thu từ chính từ các cụm công nghiệp chiếm hơn 70% tổng doanh thu của địa phương. Nghề mộc, đồ gỗ mỹ nghệ với các thương hiệu Phù Khê, Đồng Kỵ được biết đến không chỉ với thị trường trong nước mà còn ở thị trường nước ngoài. Hầu hết những hộ làm nghề đều có sự gắn kết, hàng hóa sản xuất bán theo giá chung của thị trường và sản xuất ra tới đâu tiêu thụ hết tới đó, nên đa số các hộ làm nghề đều có đời sống kinh tế khá.

Bên cạnh thế mạnh về làng nghề, trong mấy năm qua, Từ Sơn là một trong những địa bàn trọng điểm về phát triển kinh tế và thu hút đầu tư của tỉnh. Các khu công nghiệp được quy hoạch, phát triển theo hướng thu hút đầu tư có chọn lọc, ưu tiên công nghiệp hỗ trợ cho các tập đoàn đa quốc gia, điển hình là khu công nghiệp VSIP. Cơ cấu kinh tế của thị xã đã có bước chuyển dịch mạnh mẽ, trong đó kinh tế khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) chiếm 78,6% tổng giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn. Quy mô công nghiệp tăng nhanh, công nghệ ngày càng hiện đại, công nghiệp hỗ trợ đã hình thành, là hạt nhân tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động.

Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Năm 2016, giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đạt 80.162,3 tỷ đồng, đạt 89,1% kế hoạch. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2016 đạt 28,5 nghìn tỷ đồng, tăng bình quân 35,7%/năm, gấp 4,6 lần so với năm 2010. Hình thành các sản phẩm chủ lực là điện tử, công nghệ thông tin trong các khu công nghiệp tập trung, chế biến thực phẩm... Kim ngạch xuất nhập khẩu có bước đột phá, giá trị xuất khẩu năm 2016 đạt 2,7 tỷ USD, tăng hơn tới 34 lần so với năm 2010.

Năm 2017, giá trị sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp của thị xã đạt 74.632,1 tỷ đồng, đạt 88,1% kế hoạch năm (giảm 3.135 tỷ đồng và bằng 96% so cùng kỳ). Khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế cá thể và kinh tế tư nhân tăng trưởng nhẹ, song giá trị sản xuất công nghiệp năm 2017 trên địa bàn thị xã thấp hơn năm 2016, do khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài giảm 9,6% (5.168 tỷ đồng).

Kinh tế nông nghiệp phát triển mạnh theo hướng sản xuất hàng hóa, chuỗi giá trị an toàn thực phẩm. Trong 3 năm (2016-2018), để đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, nông thôn, thị xã đã triển khai thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp và đã đạt những kết quả đáng ghi nhận. Thị xã đã vận động người dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ứng dụng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, đồng thời nhân rộng các mô hình sản xuất có hiệu quả. Theo đó, bước đầu đã hình thành nhiều vùng sản xuất hàng hóa tập trung, đưa cơ giới hóa vào sản xuất, bảo quản và chế biến; nhiều giống cây trồng mới có năng suất, chất lượng cao được đưa vào sản xuất. Thị xã đã chỉ đạo tập trung triển khai kế hoạch sản xuất theo đúng tiến độ, kịp thời vụ và chỉ đạo các xã, phường thực hiện các biện pháp khử trùng tiêu độc, xử lý môi trường, vệ sinh chuồng trại, phòng chống dịch bệnh gia súc, gia cầm và còn làm điểm của tỉnh về diễn tập phòng chống cúm A/H7N9, các chủng vi rút cúm gia cầm, kết quả đạt tốt.

Thị xã đã chỉ đạo diễn tập ứng phó với biến đổi khí hậu, tìm kiếm cứu nạn tại xã Phù Khê, kết quả đạt tốt. Mặt khác, công tác kiểm tra, rà soát và đôn đốc các xã, xử lý các trường hợp vi phạm Luật đê điều, công trình thủy lợi trên địa bàn đã được tăng cường. Vấn đề môi trường và khí hậu luôn được chính quyền thị xã quan tâm.

Năm 2016, Giá trị sản xuất nông nghiệp-thủy sản đạt 155,6 tỷ đồng, bằng 107,4% kế hoạch. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng giảm tỷ trọng ngành trồng trọt, chiếm 31%, tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi, chiếm 61%, còn lại là dịch vụ ngành, với 8% (năm 2010 là: 34,8% - 59,3% - 5,9%). Năm 2017, thị xã gieo trồng được 4.918,7 ha, đạt 99,4% kế hoạch. Diện tích nuôi trồng thủy sản 158,6 ha, 23 trang trại và 153 gia trại chăn nuôi tập trung. Giá trị sản xuất Nông-Lâm-Ngư nghiệp đạt 517,45 tỉ đồng, đạt 97,4% kế hoạch.

Thị xã tập trung triển khai đề án phát triển vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa theo hướng chuyên canh, giai đoạn 2016-2020, mô hình sản xuất nông nghiệp theo quy hoạch vùng đã được phê duyệt. Tổng diện tích chuyển đổi thực hiện quy hoạch vùng sản xuất là 570 ha. Để thực hiện các mục tiêu, thị xã đề ra các chính sách tạo mọi thuận lợi đẩy mạnh mối liên kết tiêu thụ giữa nông dân với doanh nghiệp; xây dựng vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến. Vì thế, tốc độ tăng trưởng kinh tế nông nghiệp phát triển vượt bậc.

Hoạt động thương mại-dịch vụ, năm 2016, tiếp tục phát triển, giá cả không có biến động lớn. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ 9.380 tỷ đồng, đạt 97,7% kế hoạch, tăng 12,6% so với cùng kỳ; có 1.085 doanh nghiệp đang hoạt động. Năm 2017, thương mại-dịch vụ ổn định, sức tiêu dùng tăng, giá cả không có biến động; tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ ước đạt 11.109 tỉ đồng, đạt 107,2% kế hoạch.

Công tác đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý đầu tư vốn ngân sách nhà nước. Thị xã thực hiện nghiêm túc sự chỉ đạo của Trung ương, tỉnh và địa phương về khắc phục tình trạng nợ đọng, thanh quyết toán nguồn vốn; đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình. Tiếp tục thi công các công trình trọng điểm: Đài tưởng niệm tại công viên khu trung tâm thị xã; Trường tiểu học Châu Khê I; mở rộng mạng lưới nước sạch; Trung tâm văn hóa thể thao thị xã; công trình điện chiếu sáng, đường giao thông, nhà văn hóa thôn, khu phố. Đảng bộ thị xã chỉ đạo làm tốt công tác chuẩn bị và tổ chức thực hiện đầu tư các dự án hạ tầng đất tái định cư, đất đấu giá, đất dân cư dịch vụ của các xã, phường.

Đến năm 2017-2018, thị xã tập trung các giải pháp khắc phục tình trạng nợ xây dựng cơ bản, đẩy nhanh tiến độ xây dựng các công trình trọng tâm, trọng điểm như: mạng lưới nước sạch, hệ thống nước thải thị xã; tỉnh lộ 295B, tỉnh lộ 277, đoạn từ thị xã Từ Sơn đi thị trấn Chờ, huyện Yên Phong; đoạn qua phường Trang Hạ, hoàn thành đưa vào sử dụng Trường Tiểu học Châu Khê 1; khởi công thực hiện dự án cải tạo nâng cấp đường Lý Thái Tổ, đoạn từ tỉnh lộ 295B (quốc lộ 1A cũ) đến quốc lộ 1A mới, và đầu tư xây dựng một số công trình theo hình thức BT.

Công tác chỉnh trang đô thị, dịch vụ công ích đô thị và quản lý trật tự xây dựng, vệ sinh môi trường trên địa bàn thị xã được tăng cường. Việc cấp giấy phép xây dựng, quản lý, xử lý vi phạm về xây dựng, giao thông, đô thị đảm bảo đúng trình tự, quy định. Công tác quy hoạch, nhất là quy hoạch đô thị, được quan tâm, như xây dựng trạm tăng áp, dự án cấp nước sạch của thị xã; triển khai cắm mốc giới quy hoạch trên địa bàn các xã Phù Chẩn, Tam Sơn, Phù Khê và Hương Mạc...

Công tác bảo vệ môi trường được chú trọng hơn. Thị xã đã xây dựng, triển khai kế hoạch bảo vệ môi trường giai đoạn 2016-2020 và chương trình thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo vệ môi trường. Thị xã đã xác nhận kế hoạch bảo vệ môi trường cho các doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân thuê đất ở các cụm công nghiệp; chỉ đạo thu gom, vận chuyển rác thải vào các điểm tập kết, chôn lấp, các lò đốt để xử lý.

Cùng với đẩy mạnh phát triển sản xuất, Từ Sơn đã tập trung nguồn lực xây dựng nông thôn mới. Ngay sau khi tỉnh Bắc Ninh chỉ đạo triển khai chương trình, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thị xã ban hành các cơ chế, chính sách liên quan, như: chính sách hỗ trợ, huy động nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi, trường học; hỗ trợ giảm nghèo, đào tạo nghề cho lao động nông thôn; khuyến khích xã hội hóa trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa… Nhờ vậy, đầu năm 2017, Từ Sơn, cùng huyện Tiên Du, là hai địa phương cấp huyện của tỉnh Bắc Ninh về đích xây dựng nông thôn mới. Mặc dù vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra, nhưng việc về đích xây dựng nông thôn mới là kết quả đáng phấn khởi, ghi nhận sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị và nhân dân thị xã Từ Sơn.

Sự nghiệp giáo dục-đào tạo. Giáo dục phát triển toàn diện theo hướng đa dạng hóa trường, lớp, xã hội hóa giáo dục. Qui mô trường, lớp cơ bản đảm bảo với tình hình số lượng học sinh. Năm 2016-2018, số trường lớp và học sinh tăng, khối mầm non có 23 trường, trong đó khối công lập có 20 trường với 11.363 học sinh; khối Tiểu học có 18 trường với 432 lớp, 15.623 học sinh tăng 13 lớp và 492 học sinh; trung học cơ sở  có 14 trường với 291 lớp, 10.626 học sinh tăng 9 lớp và 455 học sinh.

Thị xã tập trung ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, kiên cố trường, lớp, xây mới, được 113 phòng học, trong đó cơ bản xây mới trường Tiểu học Đồng Nguyên 1 và trường Tiểu học Châu Khê 1; xóa bỏ 23 phòng học cấp 4, tỷ lệ kiên cố hóa đạt 95,7% (Mầm non 89,9%, Tiểu học  96,3%, Trung học cơ sở 100%), 50/52 trường đạt chuẩn quốc gia, bằng 96,2%. Tuyển dụng 175 giáo viên mầm non, tiểu học và trung học cơ sở.

Phòng giáo dục đã triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 04-NQ/TU của Tỉnh ủy về tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống, truyền thống văn hóa cho thế hệ trẻ; các phong trào thi đua tiếp tục được duy trì… Công tác xã hội hóa giáo dục tiếp tục được đẩy mạnh sâu rộng trong xã hội.

Công tác y tế, dân số và phát triển. Trong năm 2016-2018, công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều chuyển biến. Công tác quản lý nhà nước về y tế ngoài công lập được tăng cường; thực hiện tốt công tác y tế dự phòng và các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế; tiếp tục áp dụng kỹ thuật mới nhằm nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân. Công tác kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh an toàn lao động, hành nghề y dược tư nhân được triển khai thường xuyên. Đến năm 2018, toàn thị xã đã có 12/12 xã, phường đều đạt tiêu chí quốc gia về y tế xã.

Công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình được các cấp các ngành, đoàn thể quan tâm; công tác tuyên truyền, vận động lồng ghép dịch vụ sức khỏe sinh và dân số kế hoạch hóa gia đình được tăng cường. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 1,57%, nhưng tình trạng mất cân bằng giới tính gia tăng nhanh, tỷ lệ giới tính khi sinh là 120 nam/100 nữ; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng thể cân nặng là 8,3%, theo chiều cao là 17,8%.

Công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được quan tâm, nhân dịp Tết nguyên đán, tết thiếu nhi 01/6 thị xã đã trích từ ngân sách và quỹ bảo trợ trẻ em tổ chức tặng quà cho các cháu có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Đồng thời chỉ đạo các xã, phường trích từ ngân sách và quỹ bảo trợ trẻ em trợ cấp cho các cháu có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Xây dựng các chương trình, kế hoạch bảo vệ trẻ em như: chống đuối nước cho trẻ em, triển khai tháng hành động vì trẻ em, phòng chống HIV/AIDS...

Công tác văn hóa-xã hội, thể dục, thể thao. Hoạt động văn hóa, thông tin, thể thao, truyền thanh sôi nổi, phong phú, đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Thị xã đã tập trung chỉ đạo và thực hiện tốt công tác thông tin, tuyên truyền hướng vào các ngày lễ, kỷ niệm của đất nước. Công tác quản lý di tích lịch sử-văn hóa được duy trì, các di tích được tu bổ, tôn tạo kịp thời, đúng quy định. Công tác kiểm tra, quản lý lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống đúng với kế hoạch của thị xã và Quy chế quản lý Lễ hội của Trung ương; việc tổ chức lễ hội có chuyển biến tích cực, tạo dư luận tốt trong nhân dân. Công tác quản lý các đại lý Internet và cung cấp dịch vụ điện tử công cộng được tăng cường; đội kiểm tra liên ngành 814 của thị xã được kiện toàn. Việc xây dựng nhà văn hóa thôn, khu phố được coi trọng, đến nay toàn thị xã có 65/80 thôn khu phố có nhà văn hóa, trong đó có 53 nhà văn hóa đạt chuẩn. Thị xã đã ban hành Quyết định và Kế hoạch triển khai và công nhận tuyến phố văn minh đô thị; đẩy mạnh cuộc vận động thực hiện nếp sống văn minh trong cưới, tang và tổ chức lễ hội được thực hiện theo Nghị quyết số 20/NQ- HĐND tỉnh, về hỏa táng, điện táng cho người quá cố.

Công tác quản lý các hoạt động tôn giáo trên địa bàn đảm bảo đúng các quy định của pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; thăm và tặng quà Ban Trị sự Phật giáo thị xã và các tăng, ni tiêu biểu nhân dịp Đại lễ Phật đản. Thị xã còn hỗ trợ kinh phí cho Ban trị sự Phật giáo thị xã tổ chức Đại lễ Phật đản, Phật lịch 2561-DL2017, với số tiền 35 triệu đồng; còn chỉ đạo các xã, phường tổ chức lễ cầu siêu cho các anh hùng, liệt sỹ nhân kỷ niệm 70 năm ngày thương binh liệt sỹ.

Phong trào thể dục thể thao quần chúng được quan tâm phát triển. Thị xã đã lắp đặt trang thiết bị thể thao ngoài trời ở công viên Lý Thái Tổ và một số vườn hoa trung tâm thị xã, được đông đảo nhân dân đồng tình ủng hộ.

Công tác phát thanh, truyền thanh bám sát nhiệm vụ chính trị của thị xã. Việc ứng dụng hệ thống quản lý văn bản điều hành, thư điện tử, dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 được đẩy mạnh, nhằm xây dựng chính quyền điện tử và tổ chức hiệu quả kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan nhà nước.

Công tác an sinh xã hội được thường xuyên quan tâm, đã tổ chức thăm, tặng quà, khám chữa bệnh cho các đối tượng chính sách xã hội và người nghèo. Việc chi trả trợ cấp cho các đối tượng chính sách, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người có công, người nghèo, cận nghèo, người cao tuối, thanh niên xung phong, kịp thời và đúng chính sách, chế độ.

Công tác xóa đói, giảm nghèo bền vững được coi trọng. Năm 2018, thị xã còn 1,41% số hộ nghèo, 1,32% hộ cận nghèo. Vấn đề lao động việc làm được các cấp, ngành quan tâm chỉ đạo, tổ chức lớp dạy nghề cho nông dân, người lao động.

Công tác an ninh, quốc phòng của thị xã nổi bật là đã hoàn thành xuất sắc việc tuyển quân; huấn luyện dân quân tự vệ cho cán bộ, chiến sĩ đúng quy định của Luật Dân quân tự vệ; tổ chức diễn tập chiến đấu phòng thủ tại phường Đồng Kỵ, xã Tam Sơn đạt kết quả cao. Công tác đăng ký xây dựng lực lượng, tập huấn cán bộ, huấn luyện dân quân tự vệ theo phân cấp đạt kết quả khá.

Tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội đảm bảo ổn định, không xảy ra đột xuất, bất ngờ; an ninh chính trị được giữ vững, an ninh nông thôn, an ninh tôn giáo được đảm bảo. Công tác phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm và tệ nạn xã hội chuyển biến tích cực; quản lý nhà nước về an ninh trật tự được tăng cường.

Công tác xây dựng Đảng. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng luôn được quan tâm và coi trọng về chất lượng. Việc nghiên cứu, học tập, quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của Đảng được tiến hành thường xuyên trong sự đổi mới, cải tiến phương pháp và nâng cao chất lượng giảng dạy chính trị, đồng thời với việc nâng cao trách nhiệm của cán bộ, đảng viên. Đảng bộ thị xã chỉ đạo sát sao công tác tuyên truyền nhiệm vụ chính trị của thị xã; tuyên truyền, tổ chức các hoạt động chào mừng các ngày lễ lớn của đất nước và của địa phương. Thị uỷ cũng quan tâm chỉ đạo công tác nắm chắc tình hình tư tưởng quần chúng nhân dân và dư luận xã hội, từ đó giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc, nhạy cảm nảy sinh từ đời sống thực tiễn.

Thị uỷ đã lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức Đảng tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) gắn với đẩy mạnh “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.

Quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, năm 2016-2018, thị uỷ mở được 08 lớp bồi dưỡng cảm tình Đảng cho 441 quần chúng ưu tú; 03 lớp bồi ưỡng đảng viên mới cho 426 đảng viên mới kết nạp; xét và cấp bằng sơ cấp lý luận chính trị cho 771 đảng viên; phối hợp với Trường chính trị Nguyễn Văn Cừ mở 01 lớp Trung cấp lý luận chính trị-hành chính cho 86 học viên. Tổ chức 08 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác xây dựng Đảng cho trên 800 lượt cán bộ, đảng viên của thị xã và cơ sở.

Công tác tổ chức, cán bộ của Đảng bộ thị xã được triển khai chu đáo, được chỉ đạo sát sao, cụ thể, nên đã đạt nhiều kết quả. Thị ủy tiếp tục đề ra giải pháp khắc phục những hạn chế, khuyết điểm trong công tác cán bộ theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, nhất là về phát huy trách nhiệm người đứng đầu ở các tổ chức đảng, chính quyền các cấp trong thực hiện chức trách và nhiệm vụ được giao. Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý từ cơ sở đến thị xã được triển khai, đảm bảo công khai, dân chủ, khách quan, đúng quy trình và đúng với hướng dẫn của cấp trên. Cán bộ được quy hoạch dự nguồn bảo đảm đúng chất lượng và số lượng, tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ trong quy hoạch chiếm tỷ lệ cao.

Công tác phát triển đảng được coi trọng, nhất là các đối tượng là người lao động, trí thức, thanh niên, phụ nữ. Trong 3 năm, Thị ủy đã kết nạp 336 đảng viên, vượt 12,6% so với kế hoạch.

Công tác kiểm tra của Đảng được Thị ủy chỉ đạo sát sao, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương, đã ngăn ngừa, hạn chế được nhiều khuyết điểm, thiếu sót, xử lý nghiêm các sai phạm trong Đảng. Trong 2 năm (2016-2017), Thị uỷ thi hành kỷ luật 64 đảng viên, trong đó khiển trách 47, cảnh cáo 04, khai trừ 08 và đình chỉ sinh hoạt 05. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được thực hiện nghiêm túc, theo quy đúng định của Đảng.

Công tác dân vận của Đảng gắn với dân vận chính quyền tiếp tục có những chuyển biến tích cực. Chất lượng công tác dân vận luôn được gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị và hoạt động thực tiễn, nên được nâng lên rõ rệt. Nội dung, phương thức của công tác này luôn được quan tâm đổi mới, với tính thiết thực và sâu sát nơi cơ sở. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, Thị uỷ Từ Sơn đã phát động các phong trào thi đua, các mô hình dân vận khéo nhằm phát triển toàn diện địa phương. Mặt khác, Thị uỷ nhiệm kỳ này còn dành quan tâm cho vấn đề an sinh xã hội; thực hiện chính sách tôn giáo; lắng nghe và giải quyết kịp thời nguyện vọng chính đáng của các giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức và cộng đồng người cao tuổi, nghỉ hưu… Do đó, khối đoàn kết toàn dân trên địa bàn thị xã đã được tăng cường đáng kể, trở thành cơ sở chính trị – chỗ dựa vững chắc của Đảng, Nhà nước, của toàn hệ thống chính trị. Bởi vì, đông đảo cán bộ, đảng viên của thị xã Từ Sơn đã nhận thức rõ là, Đảng tồn tại hay không tồn tại, tồn tại như thế nào, điều đó đều do khối đoàn kết toàn dân quyết định, nên là người lãnh đạo xã hội, Đảng phải toàn tâm, toàn lực vì lợi ích chính đáng của nhân dân, của mỗi người dân và nếu để mất dân, Đảng sẽ mất tất cả.

Đến năm 2018, Đảng bộ thị xã đã có 61 tổ chức cơ sở Đảng, gồm 12 đảng bộ xã, phường, 8 đảng bộ cơ quan, 41 chi bộ cơ sở và 210 chi bộ trực thuộc, với tổng số 5.247 đảng viên.

Công tác xây dựng, củng cố chính quyền. Cuộc bầu cử Quốc Hội và Hội đồng nhân dân các cấp ngày ngày 15-7-2016, ở Từ Sơn đã có 35 đại biểu được bầu vào Hội đồng nhân dân thị xã. Tại kỳ họp thứ nhất, ngày 10-8-2016, Hội đồng nhân dân thị xã Từ Sơn bầu đồng chí Trần Quang Huy-Bí thư Thị ủy làm chủ tịch Hội đồng, đồng chí Nguyễn Thị Lệ Tuyết làm phó chủ tịch thường trực Hội đồng và đồng chí Ngô Minh Nam làm phó chủ tịch Hội đồng. Hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp ở Từ Sơn có nhiều đổi mới, thể hiện tính đại diện của nhân dân cao hơn, có trách nhiệm hơn, không chỉ trong các kỳ họp, lấy phiếu tín nhiệm chức danh, mà còn ở hoạt động giám sát.

Ủy ban nhân dân Thị xã ngày càng được củng cố vững mạnh. Năng lực điều hành, quản lý nhà nước Uỷ ban thị xã và phường, xã có nhiều chuyển biến tích cực theo tinh thần sâu sát, có trọng tâm, trọng điểm, kịp thời, quyết liệt, có phân công trách nhiệm, xây dựng kế hoạch và thời gian thực hiện cụ thể; sự điều hành đảm bảo nguyên tắc và quy chế; công tác tiếp dân được duy trì. Công tác cải cách thủ tục hành chính được đẩy mạnh từ Thị xã tới các xã, phường đã thực hiện tất cả các thủ tục hành chính được Ủy ban nhân dân tỉnh công bố, tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả, đảm bảo thời hiệu, công khai, minh bạch, thuận lợi cho tổ chức, cá nhân tham gia các dịch vụ công. Công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật được xây dựng kế hoạch và tổ chức triển khai một cách chủ động. Hoạt động trợ giúp pháp lý, hòa giải được coi trọng. Thị xã đã thành lập và đưa vào hoạt động Trung tâm hành chính công của thị xã.

Công tác Mặt trận và các đoàn thể quần chúng ngày càng được đổi mới cả về nội dung và phương thức hoạt động, theo hướng hiệu quả, thiết thực; đa dạng hóa các hình thức tập hợp quân chúng, hướng về cơ sở, nhằm tăng cường và phát huy sức mạnh Đại đoàn kết toàn dân. Mặt trận và các đoàn thể quần chúng tiếp tục vận động thành viên, hội viên nghiêm chỉnh thực hiện chủ trương giải phóng mặt bằng để phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá  theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mặt trận Tổ quốc đẩy mạnh các hoạt động giám sát và phản biện xã hội; tổ chức cho các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và tích cực tham gia thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước.

Các đoàn thể của nhân dân Từ Sơn trong khi tham gia với tư cách là thành viên của Mặt trận Tổ quốc, đã theo đúng quy định của Luật Mặt trận Tổ quốc, nhưng vẫn giữ tính độc lập của tổ chức mình. Theo đó, các đoàn thể đã vận động đoàn viên, hội viên tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước; xây dựng Đảng, chính quyền; đồng thời sáng tạo ra những nội dung, phương thức hoạt động đáp ứng lợi ích đặc thù của đoàn viên, hội viên tổ chức của mình.

Sau 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thị xã lần thứ XVII, Đảng bộ và nhân dân thị xã Từ Sơn đã đạt được nhiều thành công trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó, thành công nổi bật nhất của nhiệm kỳ này là, Thị xã đã được công nhận hoàn thành Chương trình xây dựng Nông thôn mới, vào năm 2017.

10 năm (2008-2018), được nâng cấp từ huyện lên thị xã, Đảng bộ Từ Sơn trong lãnh đạo địa phương, một mặt, đã có nhiều thuận lợi, được sự quan tâm của Trung ương và của Tỉnh uỷ Bắc Ninh; nhất là, được nhân dân thị xã Từ Sơn, với tấm lòng tin quý, ủng hộ, và có đội ngũ cán bộ, đảng viên không ngừng vươn lên, trưởng thành. Mặt khác, Đảng bộ cũng phải đối diện với những khó khăn ở một thời kỳ phát triển rất mới của đất nước, của địa phương, trong đó, các nhân tố xã hội tiêu cực của thế giới, cũng như của đất nước và của tỉnh Bắc Ninh cũng đã  nhanh chóng ảnh hưởng trực tiếp đến Từ Sơn; trong khi đó nhân tố chủ quan là Đảng bộ Từ Sơn, vẫn còn nhiều bất cập. Nhưng với trọng trách lớn và với quyết tâm nóng bỏng của mình, lại có chỗ dựa nhân dân vững chắc, Đảng bộ thị xã Từ Sơn đã lãnh đạo đạt được những thành tựu quan trọng, đưa thị xã phát triển toàn diện theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa. Ngày 12/10/2018, tại Quyết định 1293/QĐ-BXD, Bộ trưởng Bộ Xây dựng đã công nhận TX Từ Sơn là đô thị loại III trực thuộc tỉnh Bắc Ninh. Song, Đảng bộ cũng nghiêm túc nhận thấy còn có những khiếm khuyết, bất cập, mà đâu đó trong nhân dân chưa được yên tâm, chưa có sự hài lòng. Phát huy những gì đã đạt được và sửa chữa, khắc phục những yếu kém, hạn chế của mình hôm nay, đối với Đảng bộ Từ Sơn, đấy sẽ là phương hướng phấn đấu của ngày mai.

 
thành ủy từ sơn
 
thành ủy từ sơn
Thống kê truy cập
  • Đang online: 0
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 0
  • Tất cả: 0
Đăng nhập

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ THÀNH ỦY TỪ SƠN

Địa chỉ: Số 10 Lý Thái Tổ, phường Đông Ngàn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh

Điện thoại :0222.383.5717

Email :dangbotuson@bacninh.gov.vn

thành ủy từ sơn

image banner