thành ủy từ sơn
Truyền thống hiếu học và khoa bảng

Từ Sơn là một vùng quê nổi tiếng về truyền thống hiếu học, khoa bảng rực rỡ nhất của toàn vùng Kinh Bắc. Khoa bảng cũng là một trong ba truyền thống nổi bật của vùng Từ Sơn-Đông Ngàn (bên cạnh truyền thống yêu nước cách mạng và truyền thống lao động sản xuất).

Về giáo dục, từ xưa, nhân dân Từ Sơn đã rất chú trọng đầu tư, khuyến khích con cái học hành và việc đó thể hiện từ gia đình cho đến làng xã. Hương ước của các làng đều có điều khoản quy định trách nhiệm của các gia đình và của cộng đồng đối với việc giáo dục con trẻ. Trước đây, dù chưa có trường học công, nhưng làng nào cũng có một số thầy đồ Nho đảm nhiệm công việc dạy chữ “Thánh hiền” cho trẻ em. Nhiều vị danh Nho đỗ đạt sau khi từ quan về làng lại tiếp tục mở trường dạy học theo quan niệm “tiến vi quan, thoái vi sư” (tiến thì ra làm quan, thôi làm quan thì về dạy học). Các làng đều có học điền (ruộng dành cho sự học), có văn chỉ thờ đức Khổng Tử để khuyến khích việc học hành. Thông qua con đường khoa cử, nhiều người của quê hương Từ Sơn đã đỗ đạt thành danh.

Trong “Lịch triều hiến chương loại chí”, Phan Huy Chú khẳng định: "Về khoa mục thì phủ này (tức phủ Từ Sơn) đứng đầu cả nước. Năm huyện đều có người đỗ, nhưng huyện Đông Ngàn nhiều hơn. Về những họ nối đời hiển đạt như các họ ở làng Kim Đôi, Vịnh Kiều, Vân Điềm, Vọng Nguyệt đều hơn cả một xứ… Làng Vịnh Kiều ở huyện Đông Ngàn, có họ Nguyễn, từ Văn Huy đỗ năm Minh Đức đời Mạc, đến Đức Đôn là 8 đời đỗ đạt, cộng 9 người"[1].

Sách Bắc Ninh dư địa chí của Đỗ Trọng Vĩ cũng ghi nhận: “Ở phủ Từ Sơn, từ xưa Đông Ngàn là đất văn hiến hơn cả. Các xã đều có văn học. Nhưng trong đó có bảy tổng Phù Lưu, Tam Sơn, Nghĩa Lập, Mãn Xá, Dục Tú, Hội Phụ, Hạ Dương có nhiều nhất…”. Còn theo sách Thiên Nam lịch triều truyện đăng khoa của Phan Hòa Phủ cho biết, từ năm 1075 (thời Lý), đến năm 1788 (Lê Trung Hưng), xứ Kinh Bắc có 593 người đỗ đại khoa[2]. Trong đó, phủ Từ Sơn có 282 người, riêng huyện Đông Ngàn có 138 người. Số người đỗ đại khoa của Từ Sơn chiếm gần 1/2 số đại khoa Hán học của tỉnh Bắc Ninh.

Tính trong 844 năm khoa cử Nho học (bắt đầu năm 1075, kết thúc năm 1919), riêng địa bàn thị xã Từ Sơn có 103 người đỗ đại khoa, chiếm 74,63% tổng số người đỗ đạt của huyện Đông Ngàn trước đây, trong đó có 5 Trạng nguyên[3], 1 Bảng nhãn, 7 Thám hoa, 20 Hoàng giáp, 68 tiến sĩ và 2 phó bảng.

Cả thị xã có 21 trên 33 làng xã có người đỗ đạt bậc đại khoa, nhiều làng xã, nhiều dòng họ truyền thống Nho học liên tục được phát huy, các thế hệ nối tiếp nhau có nhiều người đỗ đạt làm quan. Tiêu biểu là làng Tam Sơn có 17 người đỗ đại khoa, với đủ tam khôi (2 trạng nguyên, 1 bảng nhãn, 1 thám hoa), 3 hoàng giáp. Tiếp đến là làng Phù Khê (xã Phù Khê) có 14 người (1 thám hoa, 2 hoàng giáp); làng Hương Mạc (xã Hương Mạc) có 11 người đỗ đại khoa (1 trạng nguyên, 3 hoàng giáp); làng Phù Chẩn (xã Phù Chẩn), 10 người (2 trạng nguyên); làng Vĩnh Kiều (phường Đồng Nguyên), 10 người (2 Thám hoa, 2 hoàng giáp); làng Trang Liệt (phường Trang Hạ), 8 người (3 hoàng giáp); làng Kim Thiều (xã Hương Mạc) 8 người (2 hoàng giáp); làng Cẩm Giang (phường Đồng Nguyên) có 4 người; 2 làng có 3 người đỗ, là làng Dương Sơn (tức làng Bình Sơn, xã Tam Sơn) và làng Phù Lưu (phường Đông Ngàn); 4 làng có 2 người đỗ đại khoa, là làng Yên Từ (tức làng An Từ, xã Tam Sơn), làng Nghĩa Lập (xã Phù Khê), làng Đình Bảng (phường Đình Bảng), làng Tiêu Sơn (xã Tương Giang); 6 làng có 1 người đỗ đại khoa gồm làng Bính Hạ (phường Trang Hạ), làng Lễ Xuyên (phường Đồng Nguyên), Nguyễn Giáo (phường Đồng Nguyên), Đại Đình (phường Tân Hồng), Phù Cảo (xã Phù Chẩn) và Châu Tháp (phường Châu Khê).

Truyền thống khoa bảng ở Từ Sơn hình thành từ truyền thống hiếu học của các gia đình, dòng họ. Nhiều gia đình có cha con, ông cháu thi đậu liên tiếp nhau. Có nhiều dòng họ nổi tiếng về khoa cử, như họ Nguyễn ở làng Vĩnh Kiều có 10 người đỗ đại khoa, họ Quách ở làng Phù Khê có 8 người, họ Nguyễn ở làng Tam Sơn có 6 người đỗ đại khoa, họ Ngô ở Tam Sơn có 5 người đỗ đại khoa, họ Đàm ở làng Hương Mạc có 5 vị đỗ đại khoa, họ Nguyễn ở làng Phù Khê có 3 vị đỗ đại khoa.

Tam Sơn là làng có nhiều người đỗ đạt cao, chỉ sau làng Kim Đôi[4] và là làng duy nhất có đủ tam khôi ở Bắc Ninh. Trong đó, dòng họ Ngô ở Tam Sơn có nhiều người đỗ đại khoa, như: Ngô Luân, Ngô Thầm, Ngô Miễn Thiệu (trạng nguyên), Ngô Diễn, Ngô Dịch, Ngô Sách Thí, Ngô Sách Dụ, Ngô Sách Tuân, Ngô Sách Tố… Cũng vậy, họ Nguyễn ở Tam Sơn cũng có nhiều người đỗ đại khoa, như: Nguyễn Quán Quang (trạng nguyên), Nguyễn Khiết Tú, Nguyễn Tự Cường, Nguyễn Tảo…

Làng Phù Khê (xã Phù Khê), họ Quách có nhiều người đỗ đạt cao, như: Quách Đình Nhẫn, Quách Toản, Quách Đình Tấn, Quách Điển, Quách Đình Khiết, Quách Đồng Dần, Quách Đồng Đức, Quách Giai (thám hoa),... Làng Ông Mạc (Hương Mạc), họ Đàm có nhiều người đỗ tiến sỹ như: Đàm Thận Huy, Đàm Cư… Làng Vĩnh Kiều có Thám hoa Nguyễn Văn Huy đỗ khoa Kỷ Sửu (1529), 3 con là Nguyễn Trọng Quýnh, Nguyễn Đạt Thiện, Nguyễn Hiển Tích đỗ tiến sĩ và cháu là Nguyễn Giáo Phương đỗ thám hoa.

Đặc biệt là khoa thi năm Canh Tuất thời Lê (1490) vùng Từ Sơn có năm người đỗ tiến sỹ, là Ngô Đức Thận, Nguyễn Hoằng (Trang Liệt), Nguyễn Thúc Dụ (Phù Lưu), Nguyễn Xao (Phù Chẩn), Đàm Thận Huy (Hương Mạc).

Trong Hội Tao Đàn Thập nhị bát tú do Lê Thánh Tông làm chủ soái, văn tài Từ Sơn có ba thành viên là Ngô Luân, Ngô Thầm, Đàm Thận Huy, với nhiều bài thơ xướng họa đã được đăng trong tập Quỳnh Uyển cửu ca. Các bậc danh khoa chiếm bảng khôi nguyên tiêu biểu như:

Trạng nguyên khai khoa Nguyễn Quán Quang, làng Tam Sơn, sinh ra trong một gia đình nghèo, từ nhỏ rất ham học, thông minh, có khẩu khí ứng đối lưu loát. Ông từng thi đỗ đầu các kỳ thi hương, thi hội. Năm 1246, nhà Trần mở khoa thi đại tỷ, Nguyễn Quán Quang đỗ đầu, là vị trạng nguyên khai khoa ở nước ta[5]. Ông được nhà vua tin dùng, nhiều lần được cử tiếp sứ nhà Nguyên, làm quan đến chức Bộc xạ. Sau ông từ quan về quê dạy học, sống cuộc đời thanh đạm. Chính ông là người khai sáng, vun đắp nền Nho học ở quê hương Tam Sơn.

Trạng nguyên Nguyễn Giản Thanh, sinh năm 1482, quê xã Ông Mạc (Hương Mạc), cha là Nguyễn Giản Liên. Năm Mậu Thìn thời Lê (1508), Nguyễn Giản Thanh dự kỳ thi đình, đỗ trạng nguyên với bài phú văn nôm nổi tiếng Phượng Thành xuân sắc. Ông được bổ làm quan đến chức Đông các đại học sỹ. Dưới thời Mạc, ông từng được cử đi sứ phương Bắc, được thăng chức Thượng thư Bộ Lễ, Hàn Lâm viện thị độc, chưởng viện sự, tước Trung phụ bá. Trạng Me Nguyễn Giản Thanh là một người thành đạt trên con đường công danh, giỏi văn chương và còn lưu lại các tác phẩm nổi tiếng: Thương Côn Châu ngọc tập, Phượng Thành xuân sắc (phú nôm).

Trạng nguyên Ngô Miễn Thiệu, người Tam Sơn, là con bảng nhãn Ngô Thầm, một dòng họ danh tiếng về khoa bảng. Khoa thi năm Mậu Dần niên hiệu Quang Thiệu thứ 3 (1518), Ngô Miễn Thiệu 20 tuổi, đỗ trạng nguyên. Ông được bổ làm quan dưới triều Mạc, đến chức Thượng thư Bộ Lại kiêm Đô ngự sử, Chưởng hàn lâm viện sự, Nhập thị kinh diên, tước Lý khê bá. Ông là vị quan tài năng, mẫn cán. Khi về hưu ông dạy học ở quê nhà. Hai người con ông là Ngô Diễn, Ngô Dịch đều đỗ tiến sỹ.

Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính, người xã Phù Chẩn, dân gian gọi ông là Trạng Cháy. Ông sinh ra trong một gia đình truyền thống Nho học. Cha ông từng thi đậu hương cống, làm quan đến chức Tự khanh Thái Bảo. Ông mồ côi cha khi mới ba tuổi, gia đình lâm vào cảnh hàn vi. Mẹ ông là bà Từ Huệ phải bán ruộng cho con theo học. Năm 16 tuổi, Nguyễn Xuân Chính thi đỗ giải Nguyên; năm 37 tuổi thi trúng khoa hoành từ, được bổ làm Huấn đạo phủ Nghĩa Hưng. Được hai năm ông từ quan về nhà dạy học, tiếp tục đèn sách quyết lấy đại khoa. Từ khoa thi năm Bính Thìn (1616), ông dự sáu kỳ thi đều bị đánh hỏng do quan trường thành kiến. Đến khoa thi năm Đinh Sửu, thời Lê Trung Hưng (1637), Nguyễn Xuân Chính thi đình, đậu trạng nguyên, lúc này ông đã 50 tuổi. Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính là người văn võ song toàn, có tài hùng biện, nhiều lần được cử giao tiếp với sứ thần Bắc triều. Ông cũng từng được giao việc cầm binh dẹp loạn, được phong làm Binh bộ tả thị lang. Ông còn được vua giao trông coi việc thi cử, dạy học cho thái tử và được thăng chức Lễ bộ tả thị lang. Ông là người ngay thẳng, trung thực, khép mình vào kỷ cương, phép nước.

Ngô Luân người xã Tam Sơn, đỗ đồng tiến sỹ khoa Ất Mùi (1475), hai lần thi đỗ Đông các, thành viên hội Tao Đàn, làm thơ dâng vua Lê Thánh Tông. Ông làm quan đến chức Thượng thư kiêm Đông các đại học sỹ. Em ông là Ngô Thầm cũng đỗ bảng nhãn, có nhiều bài thơ trong Hoàng Việt thi tuyển.

Đàm Thận Huy, người Hương Mạc, đỗ đồng tiến sỹ khoa Canh Tuất (1490), làm quan trong viện hàn lâm, thành viên hội Tao Đàn. Đời Hồng Thuận (1510-1516) vì có công ứng nghĩa được thăng Thượng thư Bộ Hình, phụng mệnh đi sứ, về được thăng Thượng thư Bộ Lại. Khi Mạc Đăng Dung chiếm quyền, ông mang mật chiếu của vua Lê, đem hơn 5 vạn quân đóng ở sông Tây Kiều (Đông Ngàn) chống lại quân Mạc, bị thất bại, ông tuẫn tiết. Mạc Đăng Dung vì thế cảm kích truy tặng ông tước hầu. Đời Lê Trung Hưng đã cho lập đền thờ Tiết Nghĩa, hàng trung nghĩa, tại làng ông để thờ cúng ông. Tham gia ứng nghĩa phò Lê chống Mạc với Đàm Thận Huy còn có nhiều trung thần, nghĩa sỹ ở vùng Đông Ngàn, như Nguyễn Hữu Nghiêm, Nguyễn Tự Cường…

Nguyễn Công Hãng, người làng Phù Chẩn, là một công thần nổi tiếng thời hậu Lê. Năm Canh Thìn (1700), Nguyễn Công Hãng mới 21 tuổi, dự thi đình, đỗ đồng tiến sỹ. Sau đó ông được bổ nhiệm làm đốc trấn An Bang (Quảng Ninh), rồi được thăng làm Binh Bộ tả thị lang, từng làm chánh sứ sang nhà Thanh. Ông là một trung thần đã dốc nhiều công sức vì sự hưng thịnh của quốc gia. Trong lĩnh vực ngoại giao, ông là người thông minh, khôn khéo, có công lớn trong việc đấu tranh với nhà Thanh bãi bỏ lệ cống người vàng và nước giếng Cổ Loa, giữ gìn quốc thể của Đại Việt. Trong 13 năm làm tham tụng, ông đề ra những cải cách lớn về kinh tế, tài chính nhằm chấn hưng đất nước, giúp chính quyền Lê-Trịnh cải cách lễ giáo.

Với trên 100 người đỗ đại khoa và nhiều người đỗ cử nhân, thị xã Từ Sơn trở thành địa phương có truyền thống khoa cử thành đạt nhất vùng Kinh Bắc và của nước ta thời phong kiến. Ngày nay truyền thống đó vẫn đang được các thế hệ người dân Từ Sơn giữ gìn, phát huy và nâng lên ở một tầm cao mới.


[1]Thực ra, Phan Huy Chú đã quên không ghi cụ Nguyễn Quốc Ích (anh của hai cụ Nguyễn Công Viên và Nguyễn Đức Đôn) đỗ tiến sỹ năm Đinh Mùi, niên hiệu Bảo Thái thứ 8 (1727), đời vua Lê Dụ Tông. Tổng cộng họ Nguyễn ở thôn Vĩnh Kiều có 10 người đỗ tiến sỹ chứ không phải là 9 người. Xem Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí. Nxb. Sử Học. HN. 1960. Tập I. tr.89-90.

[2]Theo chế độ khoa cử thời phong kiến, khoa thi tiến sỹ được chia thành 3 giáp (bậc): người đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thânTiến sỹ; Đệ nhị giáp tiến sỹ xuất thânHoàng giáp; Đệ nhất giáp tiến sỹ xuất thân là bậc cao nhất gọi là Tam Khôi gồm có 3 danh (hạng): Đệ tam danhThám Hoa; Đệ nhị danhBảng NhãnĐệ nhất danhTrạng Nguyên. Đến thời nhà Nguyễn bỏ không lấy Trạng nguyên, những người đỗ tiến sỹ thường gọi là ông Nghè, còn những người có điểm chuẩn gần với bậc tiến sỹ gọi là Phó bảng.

[3]Năm trạng nguyên ở Từ Sơn gồm có: Nguyễn Quán Quang (Tam Sơn), Nguyễn Giản Thanh (Hương Mạc), Ngô Miễn Thiệu (Tam Sơn), Nguyễn Xuân Chính (Phù Chẩn) và Trần Cố (nguyên quán xã Phạm Thiều, huyện Thanh Miện, nay là thôn Phạm Lý, xã Ngô Quyền, huyện Ninh Thanh, Hải Dương, trú quán xã Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn).

[4] Làng Kim Đôi, thuộc tổng Đạo Du, huyện Võ Giàng, nay thuộc xã Kim Chân, huyện Quế Võ có 26 người đỗ đại khoa, nhưng không có người nào đỗ tam khôi.

1Khai khoa là khoa thi đầu tiên phong danh hiệu trạng nguyên.

 
thành ủy từ sơn
 
thành ủy từ sơn
 
thành ủy từ sơn
Thống kê truy cập
  • Đang online: 0
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 0
  • Tất cả: 0
Đăng nhập

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ THÀNH ỦY TỪ SƠN

Địa chỉ: Số 10 Lý Thái Tổ, phường Đông Ngàn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh

Điện thoại :0222.383.5717

Email :dangbotuson@bacninh.gov.vn

thành ủy từ sơn

image banner